Giọng khàn khàn vang lên giữa trời tuyết.
Hạ Tuế An ngoảnh đầu nhìn lại. Gương mặt nhỏ nhắn đã đỏ ửng vì giá rét, ánh mắt vẫn trong veo.
Ông lão run rẩy bước đến trước mặt nàng, tay muốn chỉ vào cái đầu trong lòng nàng nhưng rồi lại rụt về, chẳng biết vì sợ thất lễ hay vì điều gì khác. Ông cẩn trọng hỏi:
“Cái đầu này… là rơi xuống, hay… là ngươi tự gỡ xuống?”
Hạ Tuế An đáp: “Rơi xuống.”
“Vậy thì mau bỏ lại đi.” – Lão khuyên nhủ, “Nếu để đám người Hồ biết được, một cô nương như ngươi khó giữ nổi cái mạng nhỏ. Mau lên, mau vứt lại đi.”
Nhưng nàng lắc đầu, kiên quyết.
Trong lòng nàng nghĩ, người chết rồi thì cũng không nên bị tiếp tục vũ nhục như vậy.
Thấy nàng không nghe, ông lão cũng không nói thêm lời nào nữa, chỉ cúi người, lặng lẽ rời đi, trong lòng thầm mong tránh xa cô nương ngốc nghếch này một chút, miễn cho liên lụy đến bản thân.
Hạ Tuế An cứ thế ôm cái đầu đã được bọc vải, lặng lẽ bước vào thành. Gió lạnh đến mức khiến tay chân nàng tê cứng, trong lòng chỉ mong có một chén trà nóng sưởi ấm thân mình.
Trên đường hoàn toàn vắng vẻ, chẳng có lấy một bóng người.
Người Vệ Thành nếu còn đủ sức thì đã bỏ trốn từ lâu, còn lại chỉ là những kẻ không đi nổi, đành ở lại giữa cảnh hoang tàn.
Giá rét căm căm, không biết nương nhờ vào đâu.
Huống hồ Vệ Thành nằm nơi biên cương hẻo lánh, muốn đến được thành Tấn gần nhất cũng phải cưỡi ngựa phi suốt năm ngày mới tới.
Dân trong thành ngày ngày sống trong nơm nớp lo sợ, chẳng dám rời đi, bởi lẽ đường xa giá lạnh, chết cóng giữa đường là chuyện quá dễ xảy ra.
Họ chỉ biết níu kéo từng ngày, hy vọng triều đình sớm phái người đến cứu khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng này.
Nhưng từng ngày trôi qua, người chết ngày một nhiều, giống như cả Vệ Thành đang dần biến thành một cõi địa ngục trắng xoá.
Trên đường vắng hoe, chẳng thấy lấy một bóng người.
Hạ Tuế An chẳng buồn giơ tay hứng lấy bông tuyết, cũng không dừng bước, cứ thế đi thẳng về phía trước.
Những chiếc đèn lồng cũ kỹ rơi rụng nằm trước cửa tiệm đã đóng chặt, cả dãy phố tựa như không còn người ở.
Những căn nhà bị người Hồ phá hoại vẫn chưa được sửa sang lại, gỗ mục, mái sụp, mảnh vỡ ngổn ngang trên mặt đất, chẳng ai buồn dọn dẹp.
Đảo mắt nhìn quanh, không có một cửa tiệm nào mở cửa. Hạ Tuế An thầm nghĩ, có lẽ hy vọng tìm được một chén trà nóng cũng đành tan biến.
Nàng quyết định trước hết phải tìm một chỗ để chôn cất cái đầu của Tưởng tướng quân.
Sau một hồi loanh quanh tìm kiếm, cuối cùng cũng thấy được một góc đất cạnh bếp lò cũ. Vật lộn mãi, bụng nàng bắt đầu sôi lên vì đói, kêu ùng ục không dứt.
Trở lại con đường chính, nàng thử lần nữa gõ cửa xin giúp đỡ.
Trời lạnh buốt thế này, nếu đêm nay không tìm được chỗ trú, ngủ ngoài trời chưa chết vì lạnh thì cũng sinh bệnh nặng.
Nàng gõ hết nhà này đến nhà khác, không ai mở cửa. Có vài nhà thấy còn có dấu hiệu đang nấu cơm, khói bốc lên từ bếp chứng tỏ bên trong vẫn có người, nhưng chẳng ai dám ra.
Dân Vệ Thành vừa trải qua thảm sát, chẳng ai dám mở cửa cho người lạ, dù là một cô nương nhỏ bé.
Đúng lúc nàng định từ bỏ, thì bên kia đường, cửa một khách điếm khẽ hé mở.
“Tiểu cô nương.” Có người khẽ gọi nàng.
Hạ Tuế An ngạc nhiên quay đầu lại. Người giữ cửa là một bà lão – dáng người thấp bé, gầy gò – khẽ hé cửa nhìn quanh, như thể đang xác nhận bên ngoài có an toàn hay không. Bà khẽ gọi: