Lữ tiểu thư mở đầu rất tốt. Trang Tuệ thái hậu khen ngợi một phen, ban cho nàng một đôi vòng ngọc. "Tạ Thái hậu nương nương ban thưởng."
Lữ Nghi Phương đặt sáo xuống, tạ ơn rồi duyên dáng cúi lạy. Phần thưởng chỉ là thứ yếu, được thể hiện trước Bệ hạ mới là điều đáng mừng nhất.
"Tiếp tục đi."
Trang Tuệ thái hậu vỗ tay tán thưởng. Tư Nhạc tư đổi tiết mục, các tiểu thư khác cũng háo hức muốn thử.
Người thứ hai là Phùng Thanh Thu, thứ nữ Nam An bá, người đeo túi thơm hoa đào. Nàng múa điệu "Nguyệt Hoa", dáng điệu uyển chuyển lay động lòng người, cho thấy công phu khổ luyện. Chỉ là phần phối hợp của Tư Nhạc tư có phần kém hơn.
Uẩn Đường thấy Phùng tiểu thư khẽ nhíu mày; nàng ấy rõ ràng nhận ra điều này nên đã lặng lẽ thay đổi vũ điệu. Thái hậu nương nương ban cho Phùng tiểu thư một đôi vòng vàng.
Tư Nhạc tư đổi tiết mục, rồi lại một vòng họa thơ mới bắt đầu.
"Gió xuân mơn trớn cành lan biếc, Hồ điệp hay hoa lả tả tơi."
"Đời bao hoa đẹp ganh nhau sắc, Lê thay sắc tuyết giữa tiết hàn."
"Phù dung soi bóng hồ sương mờ, Chẳng rõ là sương hay hương mơ?"
Uẩn Đường tiếp lời: "Nụ hoa sắc thắm suốt đêm thay, Cánh đỏ rơi đầy báo sáng mai."
"Tháng hai thơm ngát cỏ non xanh, Anh đào núi vẫn nở đầy cành."
"Thược dược khoe duyên sắc thắm tươi, Hồng nhan bừng nở rạng ngời soi."
Khi tiếng nhạc ngừng, người bước ra là Tiền Tư Dung, Tiền gia tam tiểu thư, cháu gái Trang Tuệ thái hậu. Nàng gảy khúc "Cao Sơn Lưu Thủy". Tiếng đàn du dương tựa ngọn gió mát giữa núi rừng, khiến người nghe bất giác say đắm. Về cầm nghệ, tiểu thư Tư Dung đứng đầu kinh thành.
Uẩn Đường cụp mắt. Thuở nhỏ, nàng từng học cổ cầm bảy dây suốt năm năm, nhưng trình độ kém xa thế này. Mẫu thân còn cho nàng học cả đàn tranh, tỳ bà, sáo, đều mời danh sư tốn kém dạy dỗ. Có lẽ bẩm sinh không có năng khiếu, nên kết quả học tập của nàng chỉ thường thường, không mấy tiến triển. Cổ cầm nàng luyện tốt nhất cũng chỉ tạm hạng trung, ít ra không đến nỗi bị chê cười vì không biết gì.
Mẫu thân vì chuyện này mà thở dài không ít, thậm chí mời cả nhạc sư trong cung dạy nàng nhạc lý. Uẩn Đường tự thấy mình là "gỗ mục không thể đẽo". Nhạc sư mấy lần muốn nói lại thôi, cuối cùng đành an ủi mẫu thân: "Tiểu thư có thiên phú ghi nhớ bản nhạc rất tốt." Mẫu thân bất lực, chỉ còn hy vọng ở cổ cầm nên không để nàng bỏ dở.
Người ta nói danh sư xuất cao đồ. Mấy vị sư phụ đã thay nhau dạy dỗ, tuy đồ đệ không thiên phú nhưng cần cù cũng bù đắp phần nào. Khi học được khúc nhạc đầu tiên, Uẩn Đường rất hào hứng. Lúc vào cung, nàng đã đàn cho Bùi Hàm nghe, chỉ một mình hắn…
"Thế nào?"
Gió nhẹ thổi. Thiếu niên mười ba tuổi nhìn gương mặt mong đợi của nàng, suy nghĩ một lúc rồi thành khẩn: "Rất tiến bộ."
Nàng cười cong mắt, lòng có chút tự hào, công sức mấy tháng khổ luyện đã không uổng phí.
Năm đó, quà sinh nhật Bùi Hàm tặng nàng là một cây cổ cầm bảy dây vô giá. Nghe người hầu của Vân quý phi nương nương nói, Thất hoàng tử điện hạ đã tìm khắp kinh thành, cầu xin từ tay một danh gia, tốn không ít tâm sức mới có được. Vì cây đàn này, Uẩn Đường luyện tập chăm chỉ hơn nhiều, luôn muốn mình xứng với nó. Đến tận hôm nay, cây cổ cầm vẫn được đặt ngay ngắn trong phòng, được nàng cất giữ cẩn thận.
Uẩn Đường nhớ sau này, khi nhắc lại chuyện cây đàn với Bùi Hàm, vẻ mặt nàng vẫn rất vui. Bùi Hàm, lúc đó đã là Duệ vương, xuất cung lập phủ, cười nói: "Bản vương lúc đó chỉ nghĩ có cây đàn tốt, biết đâu ngươi đàn hay hơn một chút."
Nhớ lại chuyện cũ, gương mặt trầm tĩnh của Uẩn Đường bất giác thoáng nét cười. Nàng ngước nhìn Bùi Hàm đang ngồi ở ghế chủ tọa, bất chợt phát hiện hắn cũng đang nhìn mình. Ánh mắt hai người giao nhau trong khoảnh khắc.
Khúc "Cao Sơn Lưu Thủy" cũng vừa dứt. Cùng lúc, trong điện vang lên tiếng vỗ tay trong trẻo. Trang Tuệ thái hậu cười nói: "Cầm nghệ của Tư Dung ngày càng tiến bộ."
Tiền Tư Dung ôm đàn: "Đa tạ Nương nương, Tư Dung không dám nhận."
Thái hậu quay sang Bùi Hàm: "Bệ hạ thấy thế nào?"
"Rất hay."
Bùi Hàm nói ngắn gọn, cốt giữ thể diện cho Trang Tuệ thái hậu.
Tiền Tư Dung hành lễ: "Thần nữ đa tạ Bệ hạ khen ngợi."
Sau vài vòng đối thơ nữa, yến tiệc gần kết thúc. Thị nữ thu lại giấy nhắn từ các tiểu thư. Nữ quan Đàn Âm kiểm đếm rồi bẩm báo Thái hậu: "Bẩm Nương nương, hôm nay Khương tiểu thư giải nhất, đoán đúng mười bốn loại hoa."
Trang Tuệ thái hậu cười: "Uẩn Đường quả nhiên thông tuệ."
Bà sai nữ quan thân cận mang đến một hộp gấm chạm hoa rỗng ban cho Uẩn Đường. Nàng đứng dậy tạ ơn. Trong hộp là đôi trâm cài hoa sen đôi bằng ngọc trắng khảm đá quý, vừa nhìn đã biết là tay nghề trong cung. Nàng giao cho Thái Lê cất giữ.
Các loại hoa hôm nay thực ra không khó đoán. Ngoài sáu vị đã hiến nghệ, với những tiểu thư còn lại, chỉ cần xem ai đối được nhiều thơ về loại hoa nào nhất thì người đó giữ túi thơm hoa ấy. Đáp án rất rõ ràng, chỉ là không nhiều người có tâm để ý như nàng.
Phần thưởng của Thái hậu tuy quý, nhưng tính ra, cơ hội hiến nghệ trước Bệ hạ có lẽ còn quý hơn. Có Bùi Hàm ở đây, cũng không ai bận tâm phần thưởng của Thái hậu thuộc về ai.
Yến tiệc kết thúc, lúc ra khỏi cung, Uẩn Đường mới phát hiện túi thơm của Liễu Kỳ, tiểu thư nhà Hàn lâm đại học sĩ, lại là hoa lê. Nàng hơi ngạc nhiên. Mỗi khi đến lượt Liễu Kỳ tiếp thơ thì nàng ta đều nói tới hoa lê nên Uẩn Đường đoán Liễu Kỳ chắc chắn không giữ túi hoa lê.
"Vẫn chưa chúc mừng Khương tiểu thư." Liễu Kỳ và Uẩn Đường gặp nhau ở cổng cung, nàng ấy ôn tồn nói. Hai người chỉ là xã giao. Uẩn Đường đáp lễ, sau đó họ nói vài câu rồi từ biệt.
Trên xe ngựa về phủ, Thái Đào khen mãi đôi trâm cài, minh châu khảm trên đó lấp lánh, đôi hoa sen chạm khắc lại càng tinh xảo.
"Tiểu thư đang nghĩ gì vậy?" Thái Lê tinh ý nhận ra Uẩn Đường có tâm sự.
"Ta chỉ là... nghĩ đến Liễu tiểu thư."
Còn có lá thư từ phủ Duệ vương gửi cho Liễu Kỳ nữa, Uẩn Đường nghĩ thầm. Không muốn nói nhiều thêm, nàng chỉ dặn Thái Đào cất kỹ trâm cài.
"Về phủ thôi, hôm nay ta cũng mệt rồi."