Kiêu Khởi Thanh Nhưỡng

Chương 8

Trước Sau

break

Hành trình trong ngày của Nhiếp Cửu La thật sự khá buồn tẻ.

Ba ngôi chùa miếu, to lớn uy nghi, trong đó có hai nơi còn phải mua vé. Thế nhưng những pho tượng điêu khắc bên trong đều mới tinh, thủ pháp tầm thường, nói trắng ra thì chỉ là sản phẩm dây chuyền, hoàn toàn không có chút đặc sắc nào.

Đến hơn bốn giờ chiều, cô mới xem xong ngôi chùa cuối cùng, bước ra ngoài tìm xe.

Lão Tiền lúc ấy đang ngồi ở một quán vỉa hè ăn thịt nướng, vừa ăn vừa hăng say tám chuyện trong mấy cái nhóm chat. Thoáng trông thấy cô, ông vội vàng đứng bật dậy trả tiền, rồi cắm đầu chạy một mạch đến cạnh xe, sốt sắng mở cửa xe cho cô trước khi cô lại gần.

Nhiếp Cửu La ngồi xuống ghế sau, khẽ nói một câu: “Về thôi.”

Cô cảm thấy khá mệt. Nếu một ngày bận rộn mà thu được nhiều thành quả, ngược lại cũng chẳng đến nỗi. Đáng sợ nhất chính là phí công vô ích, bận rộn mà chẳng được gì, mệt cả thể xác lẫn tinh thần.

Trên xe, chạy dọc quốc lộ, Lão Tiền có chút thấp thỏm. Trong nhóm chat của công ty du lịch, mấy hôm trước Tôn Châu còn than phiền rằng cô Nhiếp này xem điêu khắc mãi không dứt. Sao đổi sang mình, chuyến đi lại kết thúc sớm thế này, mặt mày cô còn khó chịu như vậy? Lẽ nào không hài lòng với dịch vụ của mình?

Không được, phải tìm cách bù lại, nâng cao “chỉ số hài lòng của khách hàng”. Cái gọi là “cảnh đẹp không đủ thì lấy văn hóa bù, văn hóa không đủ thì lấy truyền thuyết bù, truyền thuyết không đủ thì… bịa cho đủ.”

May mà vừa rồi ông mới hóng được cả đống chuyện phiếm trong nhóm, đề tài để “chém gió” thì không thiếu. Lão Tiền hắng giọng: “Cô Nhiếp, hôm kia cô có phải đi xã Hưng Bá Tử không?”

Nhiếp Cửu La gật đầu: “Ừm, hôm kia, cả hôm qua nữa, đều đi.”

“Thế cô có biết, ngay hôm kia, ở Hưng Bá Tử có một người phụ nữ mất tích không?”

Nhiếp Cửu La hơi ngẩn ra, lập tức nhớ tới mấy bà ngồi đánh bài dưới gốc cây hòe lớn ở phía đông xã, cũng đang tám chuyện này.

Không ngờ còn có tiếp diễn, đúng là ở nơi nhỏ bé, chuyện đông chuyện tây rốt cuộc cũng chỉ xoay quanh một việc.

“Người phụ nữ mất tích ấy tìm thấy chưa?”

Lão Tiền lắc đầu: “Chưa, chưa đâu. Nhưng mà nghe nói, nghe nói thôi nhé, là bị sói vồ rồi.”

Hóa ra, người chồng của người phụ nữ ấy sau khi bắt quả tang ngoại tình bất thành, đến tối hôm qua mới báo cảnh sát.

Còn quá trình điều tra đến đâu, Lão Tiền cũng không rõ. Nhưng ông có một bà dì già sống ở Hưng Bá Tử, tình hình trong xã thế nào thì rõ mồn một.

Nói là tin tức phụ nữ mất tích vừa truyền ra, bà con láng giềng đều rất quan tâm. Sáng nay ăn xong cơm, người trong xã tự phát tổ chức tìm kiếm, già trẻ lớn bé đều tham gia, tìm đến tận đầu tây thôn, nơi vốn xưa nay chẳng ai muốn tới.

Nhiếp Cửu La nhạy bén nắm bắt được từ khóa trong lời ông ta: “Tại sao mọi người không bao giờ đến đầu tây thôn?”

Nghĩ lại, mấy hôm trước khi vào ngôi miếu đổ nát xem tượng, quả thật cực kỳ yên tĩnh. Đông - tây thôn chẳng cách xa bao nhiêu, nhưng chưa từng thấy người phía đông qua bên kia.

Lão Tiền nói: “Ài, quen rồi, dân quê mê tín, cảm thấy phía tây không sạch sẽ… Nói tiếp chuyện chính, khi họ đến đó, quả nhiên phát hiện không ổn.”

Thứ nhất là vết máu khô rải rác, thứ hai là mấy thân cây ngô bị gãy đổ thành một vệt dài. Lần theo dấu vết đó, cuối cùng tìm được một cái hang sát sườn núi.

Nói đến đây, Lão Tiền vừa lái xe, vừa lấy điện thoại ra lướt: “Trong nhóm còn truyền cả ảnh nữa cơ, trời ơi, nói nhiều quá, giờ chẳng lục lại nổi.”

Nhiếp Cửu La nhắc ông: "Không cần cho tôi xem, kể lại là được. Chú lo lái xe đi."

Lão Tiền vội cất điện thoại, hết sức miêu tả cái hang ấy. Miệng hang như bị bới ra, cả cái hang chui xiên xuống đất, sâu chừng hai ba mét, vừa tanh vừa hôi, xộc thẳng vào mũi.

Nhiếp Cửu La nghe xong thấy mơ hồ: “Không phải nói bị sói vồ sao? Trong hang có sói à?”

Câu trả lời của Lão Tiền khiến cô dở khóc dở cười: "Người thì chưa thấy, sói cũng không. Nhưng cái hang đó trông giống hang do sói đào, sói hay khoét hang lắm, móng vuốt nó khỏe, cào bới dễ dàng.”

Người thì biến mất, cạnh đó lại có một cái hang giống sói đào…

Thế là mới suy đoán thành “bị sói vồ”.

Nhiếp Cửu La thật sự không biết nên nói gì, song vẫn đưa ra ý kiến: “Tôi thấy khả năng là sói không lớn. Dù sói thật sự ăn người, cũng phải còn sót lại xương chứ.”

Lão Tiền gật đầu liên tục: “Dì tôi cũng bảo không phải sói. Bà ấy nói là… ài, gần chín mươi tuổi rồi, chỉ toàn nói linh tinh.”

Nhiếp Cửu La lại có hứng thú: "Dì chú nói là gì?”

Cô cảm thấy, đã gần chín mươi tuổi, cho dù là lời bịa đặt, cũng đáng để nghe một chút.

Lão Tiền vốn không định kể, nhưng nghĩ lại, cô Nhiếp này cũng có chút mê tín, biết đâu lại thích nghe.

Ông tỏ ra đắc ý: “Cô Nhiếp, cái này cũng chỉ có dì tôi lớn tuổi, còn nhớ chuyện xưa, chứ cô hỏi người khác, dù từ nhỏ ở đó, chưa chắc đã nghe qua. Dì tôi bảo là, ngôi miếu đổ kia sập rồi, Địa Quan Âm không vui, mới ra ngoài quấy phá.”

“Miếu đổ? Miếu nào?”

“Thì cái miếu cũ nát trong ruộng ngô đó.”

“Miếu đổ, sao ‘Địa Quan Âm’ lại không vui?”

“Miếu của bà ta, nhà của bà ta chứ còn gì nữa.”

Đúng là bất ngờ thú vị, Nhiếp Cửu La lập tức thấy phấn chấn: “Đó là miếu Quan Âm à? Hoàn toàn chẳng giống. Tôi còn vào trong rồi, cũng đâu thấy tượng Quan Âm.”

Lão Tiền cười hề hề: “Cô tưởng Quan Âm thật sao? Chỉ là một yêu quái thôi, đặt cho mình cái tên nghe hay vậy đó.”

Rồi Lão Tiền kể cho Nhiếp Cửu La nghe một câu chuyện ma quái nơi thôn dã.

Chuyện phải truy về rất nhiều năm trước, tận cuối thời nhà Thanh. Khi đó, Hưng Bá Tử vẫn chỉ là một ngôi làng nhỏ vô danh. Bấy giờ chưa phân thôn Đông thôn Tây, cách làng chừng mười dặm có một đầm lầy lớn, chẳng khác nào một thứ “hắc lào mùa vụ”. Mùa đông thì đóng băng cứng ngắc, mùa hè lại lầy lội khó đi, không biết đã nuốt chửng bao nhiêu gà, vịt, heo, thậm chí cả người sa chân xuống đó. Chỉ cần trời hơi nóng lên, lập tức bốc mùi hôi thối nồng nặc.

Trong làng có một gia đình, chỉ có một bà lão và hai anh em trai. Một năm vào đầu thu, tầm thời gian cũng gần giống hiện tại, người anh cả gùi hàng hóa trong núi, xuống thành phố họp chợ…

Đi thành phố phải băng qua đầm lầy lớn đó. Bình thường mọi người đều đi vòng, nhưng anh cả ham tiện, nghĩ rằng đã là tháng chín rồi, đầm lầy chắc không còn quá nhão, đủ cứng để đi qua.

Ai ngờ đi một lần, liền không bao giờ quay về nữa.

Người không thể cứ thế mà biến mất. Em trai an ủi mẹ xong, liền lần theo con đường anh cả đã đi để tìm.

Cậu tìm trong đầm lầy suốt ba ngày ba đêm, không thấy bóng dáng anh trai đâu, lại gặp một cô gái trẻ quần áo rách rưới, tóc tai bù xù, chân trần. Cô gái nói mình đi cùng gia đình đến nương nhờ họ hàng, nửa đường gặp phải thổ phỉ, cả nhà bị tản mác, nên cứ lạc loài mò mẫm trong núi, đã mấy ngày liền không có gì ăn.

Em trai thấy cô gái đáng thương, bèn đưa về nhà.

Người nông thôn vốn hiếu khách. Dù bà lão vẫn còn chìm trong nỗi đau mất con cả, vẫn gắng gượng nấu nước cho cô gái tắm, rồi ôm đống quần áo bẩn của cô đi giặt. Giặt được một lúc, bà bỗng thấy có điều gì đó không ổn.

Quần áo của cô gái này, cái thì rộng, cái thì chật, hầu hết đều cũ nát. Chỉ có một chiếc trông còn ra dáng, là một chiếc quần vải thô đen. Nhưng chiếc quần này, lại là quần nam.

Bà lão nhớ rõ, hôm con trai cả rời nhà, cũng mặc một chiếc quần vải thô đen như thế.

Thời đó, quần áo dân quê rất đơn giản, quần vải thô đen thuộc loại phổ biến. Bà sợ mình nhìn nhầm, bèn kiểm tra kỹ đường chỉ may ở cạp quần. Quần áo của con trai đều do chính tay bà khâu, mũi chỉ của mình, bà dĩ nhiên nhận ra.

Đúng là quần của con trai cả. Nhúng xuống nước, lập tức có một tầng màu đỏ tanh tưởi, loang ra trên mặt nước.

---

Nghe đến đây, Nhiếp Cửu La không nhịn được khen: “Chú kể kỹ thật đấy, hoàn toàn có thể viết thành sách rồi."

Ban đầu cô còn tưởng loại đàn ông thô kệch như Lão Tiền, kể chuyện chỉ dừng ở mức cộc lốc, không ngờ ông ta lại kể từng chút một, sống động đến mức như hiện ra trước mắt.

Lão Tiền đáp: “Bởi vì tôi nhớ kỹ mà. Hồi nhỏ tôi sống ở xã Hưng Bá Tử, dì tôi thường lấy chuyện này kể làm truyện trước khi đi ngủ… trời ạ, hồi đó quê hay mất điện, tối om om, cô thử tưởng tượng đi, chỉ có một ngọn nến lập lòe, bà ấy lại kể loại chuyện này, khiến tôi trằn trọc mất ngủ cả đêm.”

Nhiếp Cửu La bật cười: “Dì chú gan thật, sao lại đem mấy chuyện này kể cho trẻ con nghe chứ.”

Lão Tiền cũng thấy buồn cười: “Thời đó nuôi trẻ con thô sơ thôi, lúc thì kể ma, lúc thì kể sói, bây giờ thì khác rồi. Trẻ con giờ quý như vàng, ai dám kể mấy thứ này, sợ chẳng may để lại cái gọi là… ‘bóng ma tuổi thơ’ ấy chứ.”

---

Bà lão đi hỏi cô gái kia, cô ta nói, cái quần là nhặt được trong núi, cách đó không xa còn có một chiếc dép cỏ đã rã rời, trên dép cũng lấm tấm vết máu. Vì không tìm được chiếc còn lại, không ghép thành đôi được, nên cô cũng chẳng nhặt về đi.

Nhưng rốt cuộc ở chỗ nào trong núi thì cô không biết đường, nói không rõ được.

Chắc chắn là gặp cọp sói gì rồi, bà lão khóc một trận thảm thiết.

Mà cũng chỉ có thể khóc một trận mà thôi. Người miền núi mà, sống nhờ núi, ăn lâu rồi thì cũng có lúc bị núi ăn lại, chẳng phải chuyện hiếm.

Nhà mất đi một người, may mà chẳng bao lâu lại có chỗ bù đắp. Cô gái kia không nơi nương tựa, bèn ở lại làm vợ lão nhị.

Có điều, bà lão cũng chẳng lấy gì làm vui. Thằng lão nhị nhà bà thì ngốc nghếch vụng dại, còn cô gái này lại xinh đẹp nõn nà. Bà có kinh nghiệm, kiểu kết hợp này chẳng thể bền lâu, tám phần là cái loại dâm phụ.

Dân làng cũng nói, cô dâu nhỏ này nhìn chẳng hiền lành gì, thể nào cũng có ngày vụng trộm đàn ông.

Thế nhưng, ngoài dự liệu của tất cả mọi người, cô dâu nhỏ cùng lão nhị sống với nhau yên ấm hòa thuận. Bọn đàn ông thô bỉ định trêu ghẹo cô đều ăn quả bơ ngay trước mặt, chẳng những thế, ai đắc tội với nhà họ, chẳng mấy ngày là nhà ấy gặp vận rủi. Hoặc gà bị vặn gãy cổ, hoặc nồi cơm bị đập thủng đáy.

Thế là lại có lời đồn, cô dâu nhỏ kia là yêu tinh núi rừng, trên người có phép lạ quái dị.

Lúc đầu bà lão cũng hơi sợ, sau lại nghĩ thoáng. Mặc kệ là tinh hay quái, chỉ cần biết che chở cho người nhà, không hại người nhà, còn lại thì kệ nó.

Cứ thế qua một hai năm, ngoài chuyện bụng cô dâu nhỏ mãi không động tĩnh, hơi có chút tiếc nuối, thì cũng yên ổn cả.

Thế nhưng, đời nào có chữ ngờ, một ngày kia làng gặp đại họa, liên tiếp hai lần thiên tai. Đầu tiên động đất sập nhà, sau đó sét đánh vào rừng núi, lửa bén bùng lên, gió thổi trợ lực, lửa như tấm thảm đỏ cuồn cuộn, nuốt chửng cả ngôi làng.

Vận rủi lại rơi đúng vào cô dâu nhỏ. Hôm đó bà lão với lão nhị ra đồng làm ruộng, chỉ mình cô ở nhà nấu cơm. Đầu tiên bị xà nhà sập xuống đè bẹp, động đậy không nổi, rồi lại tận mắt nhìn ngọn lửa nuốt chửng lấy mình.

Đến lúc được người ta cứu ra, cô gần như đã biến thành một khúc than biết thở, toàn thân cháy đen, máu mủ vàng sền sệt rỉ ra ngoài, chỉ có đôi mắt vẫn sáng long lanh, còn chảy được nước mắt.

Bà lão và lão nhị khóc lóc thảm thiết, cô dâu nhỏ lại bình tĩnh, hơi thở như tơ mà nói. Mình chết thì cũng thôi, chỉ là chưa để lại hậu duệ cho nhà này, không cam lòng. Cô muốn trông thấy lão nhị lấy vợ khác, sinh con nối dõi, mới nhắm mắt yên được.

Trong chốc lát, mười dặm tám làng quanh vùng đều khen ngợi đức hạnh của cô dâu nhỏ này, thậm chí có người còn định báo quan phủ, xin lập cho nàng cái cổng trinh tiết - chuyện này không nói thêm. Tóm lại là, lão nhị chẳng mấy chốc dựng lại được nhà cửa, rồi cũng nhanh chóng cưới thêm vợ. (Nhiếp Cửu La:hừm, đàn ông……)

Người vợ mới không đẹp, nhưng khỏe mạnh, tháo vát, chuyện nhà chuyện ruộng đều giỏi, chưa đầy một năm đã mang thai. Trong thời gian ấy, cô dâu nhỏ như khúc than kia vẫn nằm ở căn buồng hẻo lánh, chẳng hé răng, ăn ít, chỉ lặng lẽ chờ nhắm mắt.

Một ngày sinh nở, vợ mới hạ sinh một đứa bé mập mạp, cả nhà mừng rỡ, bà lão bận bịu chăm sóc con dâu, còn lão nhị thì đi báo tin vui cho cô dâu nhỏ.

Lão nhị vừa đi, thì cũng như lão cả, chẳng thấy quay lại.

Bà lão sốt ruột chờ, đành tự mình đi tìm, kết quả phát hiện trong buồng trống rỗng, cửa sổ gỗ bật mở, ngoài cửa sổ gió tuyết cuồn cuộn đen ngòm, trên khung cửa sổ vẫn nhỏ xuống những giọt máu.

---

Nói đến đây, lão Tiền hỏi một câu: “Cô Nhiếp, cô đoán là chuyện gì?”

Nhiếp Cửu La nghĩ ngợi, đêm hôm khuya khoắt, gió tuyết cuộn vần, lại là ngôi làng tựa núi, bình thường mùa đông trong núi kiếm chẳng ra thức ăn, bầy sói hay liều mình kéo vào làng. Trong tác phẩm nổi tiếng của Lỗ Tấn, đứa bé A Mao con của chị Tường Lâm cũng bị sói tha đi như thế.

Cô nói: “Tôi đoán chắc chắn không phải là sói.”

Lão Tiền kinh ngạc: “Vì sao? Hồi đó dì bà bảo bọn tôi đoán, bọn con nít chúng tôi đều đoán là sói.”

Nhiếp Cửu La mỉm cười: “Chính vì ai cũng sẽ đoán là sói, đoán dễ thế thì người ta còn bắt đoán làm gì?”

Câu này có chút quanh co, lão Tiền thoáng chốc chưa hiểu ra.

Có điều, cô Nhiếp nói đúng rồi, dì bà hồi ấy cũng bảo: “Ta biết ngay chúng bây sẽ đoán là sói, cái đầu óc non nớt của chúng bây à…… Trên đời này thứ đáng sợ hơn sói, còn nhiều lắm đó.”

---

Bà lão cũng nghĩ là sói.

Bà hấp tấp chộp lấy cái liềm, lại rút từ gầm bếp ra một cây đuốc cháy rừng rực, rồi lần mò ra phía sau nhà.

Tuyết trên đất chưa dày, chỉ mỏng một lớp, nhưng cũng đủ để nhận ra vết tích lờ mờ. Những dấu vết ấy dẫn tới một cây hòe già ngay sau nhà. Cây hòe này năm ngoái cũng bị cháy thành than đen khô, nhưng mấy tháng trước lại bắt đầu đâm chồi, lúc này trên cành còn treo từng chùm hoa.

Cây hòe hiếm khi nở hoa mùa đông, dân làng bảo đó là điềm lành, bà lão cũng tin. Nhưng giờ đây, bà thấy là điềm yêu tà.

Sau gốc cây, đang truyền ra tiếng “cót két cót két” gặm nhấm.

break
Trước Sau

Báo lỗi chương

Ngôn tình sắc Đam mỹ sắc