Kiêu Khởi Thanh Nhưỡng

Chương 9

Trước Sau

break

Bà lão run rẩy thò đầu nhìn thử, vừa thoáng thấy cảnh tượng thì như bị sét đánh, cái liềm trong tay “loảng xoảng” rơi xuống đất.

Bà nhìn thấy, cô con dâu cháy đen như than đang ôm xác lão nhị gặm cắn. Nửa người trên của lão nhị đã bị cắn chẳng còn, hai cánh tay cùng đôi chân rũ xuống đất, còn thỉnh thoảng co giật do phản ứng thần kinh.

Nghe tiếng động, cô con dâu quay đầu lại, nhe răng cười với bà lão.

Khuôn mặt cô đen sạm, môi cháy mất quá nửa, để lộ hàm răng trắng hếu, kẽ răng dính đầy máu thịt. Hai mắt sáng quắc, sau gáy xõa xuống từng mớ tóc khô vàng như cỏ rối. Trận hỏa hoạn trước kia đã đốt trụi mái tóc ấy, bà lão bao lâu nay không để ý, cũng chẳng rõ từ lúc nào mà nó lại mọc ra như cây khô đâm chồi.

Bà lão nào chịu nổi cảnh này, chưa kịp kêu tiếng nào đã ngửa người ngã lăn xuống đất ngất lịm. Trong khoảnh khắc mắt sụp xuống, bà lờ mờ thấy cô con dâu kẹp theo nửa cái xác lão nhị, vọt thẳng vào màn đêm đen kịt.

---

Lão Tiền kể đến đây thì dừng.

Trời sắp tối, xe cộ trên đường đã thưa thớt. Thu sang, cây cối xung quanh tiêu điều, trời đất bốn phía hiện ra vẻ lạnh lẽo vắng lặng.

Hai người im lặng chừng mười giây. Nhiếp Cửu La thì đang tiêu hóa câu chuyện, còn lão Tiền thì đang ủ mưu dẫn đề tài.

"Cô Nhiếp, lúc nhỏ tôi nghe chuyện này chỉ biết sợ, lớn lên nghĩ lại, mới thấy trong đó có chỗ chẳng hợp lý.”

Nhiếp Cửu La cũng cảm thấy thế: “Chú nói đi.”

Lão Tiền tuôn thẳng: “Cô nói xem, cái yêu quái ấy cũng nhẫn nhịn giỏi thật, ở với lão nhị cả năm rưỡi hai năm mới ăn, chứ sao không ra tay sớm hơn?”

Nhiếp Cửu La nghĩ ngợi: “Có thể do nó bị thương, hao tổn nguyên khí, phải bồi bổ lại chứ.”

Lão Tiền xua tay lia lịa: “Không, không, không.”

Chuyện này ông nghe từ bé, mấy chục năm nhấm nháp không biết bao lần: “Thứ nhất, đã cần bổ nguyên khí thì sao lúc vừa bị thương không bổ luôn, lại phải chờ hơn năm trời? Còn cố nán lại muốn sinh con cho nhà đó? Như thế cũng tốt bụng quá rồi. Thứ hai, vợ chồng đầu gối tay ấp, sống lâu cũng có tình cảm, cả làng đầy người, chọn đại ai chả được. Muốn đồng nam có đồng nam, muốn đồng nữ có đồng nữ, hà tất cứ phải xuống tay với chính người nhà?”

Nghe mà chân thành đến thế, Nhiếp Cửu La bật cười: “Chuyện thôi mà, nhiều truyền thuyết dân gian vốn thế, không chịu nổi soi xét kỹ lưỡng đâu.”

Lão Tiền thở dài: “Bà dì tôi cũng bảo vậy, nhưng mỗi lần tôi hỏi thì bà lại phát cáu, càng già càng nóng tính, gắt ầm lên: ‘Tao nghe thế nào thì kể thế ấy, tao đâu biết yêu quái nó nghĩ gì!’”

Phải rồi, lòng người còn chẳng đoán nổi, huống chi yêu quái nghĩ gì chứ.

Nhiếp Cửu La hỏi: “Rồi sau đó thì sao?”

Chuyện sau đó thì đơn giản.

Bà lão tỉnh lại thì cả con dâu lẫn lão nhị đều biến mất, chỉ còn dưới gốc cây hòe một vũng máu đông cứng lại, nhắc nhở bà rằng mọi chuyện không phải ảo giác.

Tiếng khóc thảm thiết gọi dân làng xúm đến, ai nấy vác cuốc xẻng, dao rựa, thắp đuốc lần theo vết máu đi tìm. Họ lần vào tận đầm lầy lớn, gió bấc gào thét tựa quỷ khóc thần kêu, chẳng ai dám đi sâu hơn, đành quay về.

Sang hôm sau, tuyết rơi trắng xóa, trời đất mịt mù, tất cả dấu vết đều biến mất.

Lại là đầm lầy lớn. Lão cả đi chợ, vòng qua đầm lầy rồi mất tích, lão nhị tìm anh, trong đầm lầy gặp con dâu, con dâu cũng từ đầm lầy mà đến, mặc quần vải đen của lão cả, ôm xác lão nhị, rồi cũng biến mất vào đầm lầy.

Đầm lầy lớn, bà lão sợ đến tận xương tủy.

Không riêng gì bà, cả làng đều nhắc đến đầm lầy mà biến sắc. Nỗi sợ lan rộng ra bốn phương tám hướng, dãy Tần Ba mênh mông bạt ngàn, ai dám chắc cái thứ kia không mò đến cửa nhà mình?

Lời đồn thêu dệt sôi như nước sôi. Ở làng Lý, có người nói thấy con dâu kia ngoài cổng, một tay lôi đi cả một con heo. Ở làng Vương, có kẻ lên núi chặt củi, bắt gặp một con sói bị mổ bụng, còn cái bóng người cháy đen kia thì đang ngấu nghiến tim gan sói, tóc mọc dài đến tận eo, đi lại loạt soạt như cái cọc gỗ phủ kín tơ nhện dày đặc...

Cả vùng nháo nhào, có kẻ sợ quá dọn nhà bỏ xứ. Chuyện này kinh động đến quan huyện, nhưng dính dáng đến ma quái tà thuật, ông ta chẳng dám tấu lên trên. Giữa thời Thanh từng có vụ “gọi hồn” từ Giang Nam, gây nên phong trào sợ ma thuật khắp nửa Trung Quốc, triều đình nổi giận, chém không ít quan viên liên đới.

Quan huyện đành cùng thầy ký (người ghi chép giấy tờ cho quan lại), nghĩ trăm phương nghìn kế, tìm thầy cao tay đến “trừ yêu”.

Lại một năm trôi qua, đúng mùa đông tháng chạp, có một đạo sĩ giang hồ đi ngang. Ông ta gieo quẻ, tính toán nhiều lần, quả quyết rằng gốc rễ yêu nghiệt nằm ở đầm lầy lớn, muốn diệt mối họa thì phải trị đầm lầy trước.

---

Nghe đến đây, Nhiếp Cửu La không nhịn được, “phụt” một tiếng bật cười.

Cái câu chuyện này đúng là khúc khuỷu quái đản. Ban đầu tưởng chuyện dị văn thôn quê, sau lại thành báo ân hành thiện, tiếp đó chuyển ngoặt sang máu me rùng rợn, giờ lại thành… kêu gọi bảo vệ môi trường.

Lão Tiền thấy cô cười thì chẳng hiểu mô tê, Nhiếp Cửu La cố nhịn, ra hiệu cho ông kể tiếp.

"Bà dì tôi bảo, đạo sĩ kia làm phép, trận thế to lắm, xa gần có mấy nghìn người chạy tới coi. Thời ấy dân còn ít, mấy nghìn người đã bằng một cái hội chợ lớn rồi.”

Nhiếp Cửu La tưởng tượng cảnh cuối đời Thanh, vùng núi hẻo lánh mà tập trung được ngần ấy người, cũng coi như một “sự kiện” lớn.

“Đạo sĩ ấy thì đủ trò huyền ảo, bà dì tôi kể chẳng tả xiết, chỉ nhớ cuối cùng có cả trăm người, ngay tại bãi đất trống, dựng lò, đặt ống bễ, rồi đốt sắt thành nước thép đỏ rực.”

Nhiếp Cửu La không khỏi hỏi ngay: “Nấu sắt làm gì? Đúc rèn à?”

Lão Tiền nói: “Mùa đông mà, đầm lầy lớn đã đông cứng lại, không chỉ đóng băng mà còn vì co giãn nóng lạnh mà nứt ra cả trăm cả ngàn khe. Đạo sĩ chẳng phải tính ra con yêu kia ở dưới đầm lầy sao, nên mới đổ sắt nóng chảy xuống, coi như hàn chết cửa nhà nó, để nó không bao giờ chui ra được nữa.”

Nhiếp Cửu La chợt vỡ lẽ. Cách này thô bạo thật, nhưng nghe cũng sảng khoái, mà lại thực dụng.

Lão Tiền tặc lưỡi: “Đấy là một công trình to đấy, phải nhiều người mới làm nổi. Nhưng mà, Trung Quốc ta từ xưa người đông mà. Nghe nói họ đổ sắt nóng liên tục ba ngày ba đêm, ban đêm còn bắn tóe hoa sắt, đẹp lắm cơ. Ấy, cô Nhiếp, cô đã từng thấy ‘hoa sắt’ chưa? Đấy là tuyệt kỹ vùng Mễ Chỉ, Thiểm Tây chúng tôi, đáng để xem lắm.”

Đúng là dân làm du lịch, kể cả chuyện ma quái cũng vòng về nghề cũ. Nhiếp Cửu La quay lại chủ đề: “Đổ xong sắt thì sao?”

“Thì xong việc rồi chứ sao. Đạo sĩ đi, bốn thôn tám xã lại sinh hoạt bình thường. Cái đầm lầy ấy, không biết có phải bị sắt nóng nung qua không, mà hè năm sau cũng không còn nhão như trước. Về sau, dân thấy chỗ đất trống ấy xấu xí, nhìn cũng sợ, nên mới gánh đất vàng, đá tảng từ nơi khác về, đổ đắp dày lên một mảng to.”

Có đất, có mưa hằng năm, lại thêm gió thổi, chim thú mang hạt giống đến, chỗ đó dần dần mọc đầy cỏ dại, trở thành loại đất hoang thường thấy ở nông thôn.

Nói đến đây, ông bỗng nhớ ra: "Hồi nhỏ, tôi với lũ bạn nghe chuyện này, còn mang xẻng ra đào thử, xem có đào được vỏ sắt không. Đào hơn một mét cũng chẳng thấy, mệt gần chết.”

Chuyện đó cũng chẳng lạ, bởi chu trình địa chất cùng hoạt động con người khiến tầng đất vốn dĩ ngày càng dày lên.

Nhiếp Cửu La hỏi: “Thế còn ngôi miếu, là thế nào?”

“Chẳng phải đạo sĩ đi rồi sao? Ông ta nói đã trấn áp được yêu rồi, nhưng dân thì vẫn thấp thỏm. Nhà quê vốn mê tín, nghĩ rằng phải dựng miếu, cúng bái cho yên tâm.”

Nhiếp Cửu La chợt hiểu, nhớ tới pho tượng yêu mị kia.

Người mình lập miếu thường vì hai lý do. Một là thờ Phật Bồ Tát, Thần Tài, mong ban phúc. Hai là thờ quỷ quái, vì sợ, cầu cho nó đừng hại mình, có hại thì đi hại nơi khác.

“Dựng miếu thì lại ngại nói thờ yêu, truyền ra ngoài chẳng hay, bèn nói mập mờ là thờ Quan Âm. Nhưng rõ ràng là yêu, mà gọi Quan Âm lại sợ Quan Âm thật nổi giận giáng họa, thế là đổi thành ‘Địa Quan Âm’, ý là Quan Âm dưới đất chui lên ấy.”

Đến đây, Nhiếp Cửu La cơ bản đã hiểu hết: “Sau này lập huyện chia xã, Hưng Bá Tử lại phân thành Đông và Tây, trùng hợp chỗ xã Tây lại có ngôi miếu đó. Dân quê kiêng kỵ, không dám đến xã Tây, cho rằng nơi ấy không sạch sẽ?”

Lý là vậy, nhưng cũng chẳng hẳn thế. Lão Tiền nghĩ ngợi, rồi bổ sung: “Cái này gọi là… ác tính tuần hoàn. Vì mọi người ít đến xã Tây, nên khả năng xảy ra cướp của giết người hay án mạng lại cao hơn. Mà càng nhiều chuyện, dân lại càng ngại đến, thành thói quen. Cũng chẳng dính dáng gì nhiều tới cái miếu. Với lại bây giờ còn biết chuyện ‘Địa Quan Âm’ thì được mấy người đâu.”

Nhiếp Cửu La “ừ” một tiếng, ngả lưng vào ghế. Vừa nãy nghe nhập tâm quá, đến mức nào chẳng hay mà cô đã ngồi thẳng người.

Cô ngừng một lát, vẫn còn dư vị: “Câu chuyện này thú vị thật, còn hay hơn cả đi xem miếu nữa.”

Được khách khen, lòng lão Tiền hân hoan.

Bỗng Nhiếp Cửu La nhớ ra: “Vậy cái lời đồn ‘miếu hỏng thì Địa Quan Âm không vui, sẽ ra hại người’, có căn cứ gì không?”

Lão Tiền khịt mũi: “Đấy là mê tín thuần túy thôi. Cuối đời Thanh, đất nước ta chẳng phải khổ sở lắm sao, tụt hậu, bị bắt nạt, lại còn loạn trong giặc ngoài. Nào loạn Thái Bình, nào Bạch Liên giáo, nào thổ phỉ, binh biến… Mỗi lần loạn lạc, dân làng đều chịu vạ, miếu bị hỏng cũng chẳng lạ. Ngôi miếu cô thấy bây giờ, tuy được sửa trước giải phóng, nhưng vốn không phải bản đầu tiên. Bà dì tôi thì cứ áp đặt, thấy miếu hỏng thì bảo có tai họa, rồi đổ hết lên đầu yêu quái. Kỳ thực toàn là nhân họa, có tai họa mới khiến miếu hỏng thôi… Ấy ấy, khoan khoan, chết cha chết cha…”

Nói đến cuối cùng, lão Tiền bỗng rít mạnh một hơi lạnh, tốc độ xe cũng chậm lại.

Phía trước đường vắng tanh, không xe không người, thậm chí chẳng có con mèo con chó nào băng qua. Nhiếp Cửu La lấy làm lạ: “Có chuyện gì vậy?”

Lão Tiền chỉ chéo về phía trước cho cô nhìn: “Cô Nhiếp, cô xem kìa, cái hàng rào!”

Được nhắc, Nhiếp Cửu La mới chú ý. Phía trước có một đoạn hàng rào bị húc gãy, phần còn lại lắc lư xiêu vẹo, nhìn thật thê lương.

Cô thường xuyên ra ngoài đi thực địa, những cảnh như hàng rào bị tông gãy hay xe lật bốn bánh chỏng vó dưới vệ đường đã thấy nhiều, nên chẳng lấy làm kinh ngạc: “Chắc từng xảy ra tai nạn.”

Cô còn liếc xuống dốc bên dưới. Chẳng thấy xe nào, chắc hiện trường đã được dọn sạch rồi. Ngoài hàng rào là một con dốc thoai thoải, xa hơn chút là cả một mảng cây gai dại cao ngất. Đây vốn là loại cây công nghiệp, cao đến hai ba mét, những năm trước nông thôn còn trồng nhiều, nhưng dần dần nhường chỗ cho cây kinh tế khác, bây giờ thấy được toàn là mọc hoang ngoài bờ bãi.

Lão Tiền xuýt xoa: “Chắc là tai nạn xảy ra hôm nay, sáng nay lúc chúng ta đi ngang qua đoạn đường này, rào vẫn còn nguyên vẹn cơ mà.”

Là tài xế, lão Tiền đặc biệt chú ý đến những vụ tai nạn, vì nghề lái xe ai cũng sợ có ngày bản thân gặp nạn. Ông ta cho xe đi chậm sát mép đường, liên tục ngó ra ngoài. Nhìn một hồi, ông ta đột ngột đạp phanh: “Không đúng không đúng, cô Nhiếp, cô nhìn kìa, vết bánh xe!”

Lúc này xe đã gần chỗ lan can gãy. Nhờ ánh đèn pha, thấy rõ ràng. Trên con dốc chỉ có hai vệt bánh xe lao xuống. Nếu hiện trường đã được dọn, lẽ ra vết bánh sẽ hỗn loạn, lại còn phải có dấu chân người cứu hộ nữa.

Nhìn theo hướng vệt bánh, in hằn kéo dài vào tới đám gai dại. Ở mép có nhiều thân cây bị bẻ gãy, chắc bị xe cán qua. Nhưng thân cây gai này dẻo, miễn là chưa gãy lìa thì sẽ từ từ bật thẳng lại, nên vào sâu trong, chẳng thấy gì nữa.

Tài xế thường chia hai loại. Một loại dửng dưng trước tai nạn, bởi thấy nhiều quá rồi, một loại thì đặc biệt nhiệt tâm, đặt mình vào hoàn cảnh đó, mong rằng nếu sau này bản thân gặp nạn cũng sẽ được người khác giúp.

Lão Tiền thuộc loại thứ hai.

Ông vội tháo dây an toàn: “Ối giời, có khi nào người ta không kịp thắng, lao thẳng xuống dưới rồi? Người với xe chẳng chừng còn đang mắc kẹt trong đó, tôi phải đi xem thử, biết đâu cứu được mạng người.”

Nhiếp Cửu La nhìn về phía đám gai cao.

Cao, dày, um tùm, cô bỗng nhớ lại ruộng ngô ở xã Hưng Bá Tử.

Trong lòng thoáng rờn rợn. Kiểu nơi như thế này, thân cây cao vút, rậm đặc che kín tầm nhìn, chẳng ai biết bên trong rốt cuộc có cái gì.

Cô định nhắc lão Tiền cẩn thận một chút, hoặc mang theo gậy gộc gì đó. Nhưng lão Tiền đã chạy vù đi, chỉ chớp mắt đã lao đi xa lắc.

break
Trước Sau

Báo lỗi chương

Ngôn tình sắc Đam mỹ sắc