Nhiếp Cửu La không kịp quay về phòng, giẫm qua một đống lộn xộn dưới đất, lao đến bên chiếc điện thoại bàn cạnh giường, bấm số gọi xuống quầy lễ tân.
Đầu dây vừa bắt máy, cô liền dồn dập hỏi: “Có thấy một người đàn ông xách túi vải bố to đi ra không? Túi vải bố lớn, một người đàn ông?”
Lễ tân ngơ ngác: “Hả?”
“Có thấy không?”
“Không… không thấy.”
Vậy là hắn vẫn chưa xuống đến sảnh? Nhiếp Cửu La thở phào một chút: “Nếu thấy, lập tức chặn hắn lại, dùng cách gì cũng được, hắn trộm đồ của tôi.”
Để người ta coi trọng hơn, cô lại bổ sung: “Mười mấy… phải đến mấy chục vạn.”
Lễ tân rõ ràng bị con số lớn đến mức ấy làm cho choáng váng: “Được… được rồi.”
Nhiếp Cửu La vừa định gác máy, lại nghĩ ra điều gì: “Ngoài đại sảnh, khách sạn này còn lối ra nào khác không?”
“Có, còn ba cửa sau nữa.”
Tim Nhiếp Cửu La chùng xuống.
Tổng cộng bốn lối ra, xác suất chặn được gã đàn ông đó chỉ còn một phần tư.
Cảnh sát tới gần mười hai giờ, một già một trẻ, thái độ đều rất khách khí. Họ trước tiên kiểm tra phòng của Tôn Châu, rồi gọi ra xem camera giám sát trong khách sạn.
Phòng Tôn Châu có dấu vết đồ vật bị phá hoại, nhưng không thấy có dấu hiệu ai bị thương.
Camera trong khách sạn chủ yếu bố trí ở đại sảnh, trong thang máy và cửa thang máy, hoàn toàn không có cái nào ghi lại được gã đàn ông đầu đinh xách túi vải bố.
Với tình hình hiện tại, chưa có chứng cứ phạm tội, cũng không có hành vi gây nguy hiểm xã hội nào. Chỉ dựa vào nghi ngờ thì không thể lập án. Cảnh sát già bảo Nhiếp Cửu La làm biên bản báo cảnh, cố gắng tường thuật rõ tình hình, ghi đầy đủ liên lạc, để sau này còn theo dõi.
Đây là lần đầu tiên trong đời Nhiếp Cửu La báo cảnh sát, hoàn toàn không có kinh nghiệm. Thấy cứ thế mà kết thúc, cô không nhịn được hỏi: “Các anh… không cần lấy dấu vân tay, hay thu thập chứng cứ gì sao?”
Cảnh sát già bất lực cười, cảnh sát trẻ thì nhiệt tình giải thích: “Chị xem phim Hồng Kông nhiều rồi phải không. Ở đây không gọi là pháp chứng, mà thuộc về bộ phận kỹ thuật hình sự, phụ trách khám nghiệm hiện trường vụ án.”
Nhiếp Cửu La hơi hiểu ra, họ thuộc “hình sự”, phụ trách “hiện trường phạm tội”. Mà chuyện của Tôn Châu có tính được thành một “vụ án” hay không thì còn chưa chắc.
Khi điền biểu mẫu, cảnh sát trẻ lại giải thích thêm, Tôn Châu hiện tại thậm chí còn chưa tính là “mất tích”. Biết đâu ngày mai anh ta tự về thì sao? Đồ đạc hỏng hóc không có nghĩa là bị bạo lực bắt cóc. Lỡ đâu chính anh ta chủ động phối hợp, tự chui vào túi vải để “chơi trò biến mất” thì sao?
Khả năng quá nhiều, trước khi có tình tiết mới, việc này chỉ được coi là một “ghi nhận xuất cảnh”, họ chỉ có thể chú ý và theo dõi sau.
Nghe nói vậy, Nhiếp Cửu La cũng thấy hơi lưỡng lự, trước đó cô từng đoán Tôn Châu bị dân cờ bạc ép nợ, liệu có phải anh ta để trốn nợ nên cùng bạn bè dựng màn kịch này không?
Mặc kệ, dù sao việc cần làm cô cũng đã làm rồi.
Điền xong tờ khai, cảnh sát già lướt qua một lượt: “Cô làm điêu khắc? Vậy là thuộc chuyên ngành mỹ thuật à?”
Tính chung thì đúng, Nhiếp Cửu La gật đầu.
“Thế là biết vẽ chứ? Xem như là kỹ năng cơ bản? Camera không ghi lại được gì, cô đã thấy mặt người đó, liệu có thể phác họa lại không?”
Yêu cầu này cũng không quá đáng. Nhiếp Cửu La mượn giấy ở quầy lễ tân, bắt đầu phác thảo nhanh. Sắp sửa vẽ xong, cô chợt nghe thấy tiếng bánh xe vali lăn ngoài cửa.
Muộn thế này mà còn có người đến thuê phòng sao? Nhiếp Cửu La tay vẫn không ngừng, mí mắt hơi nhấc, liếc ra phía cửa.
Không ngờ lại là Diêm Thác.
Cũng chẳng có gì lạ, thị trấn này nhỏ, khách lạ lại có tiền thì đa phần đều chọn ở khách sạn này.
Nửa đêm nửa hôm, hai cảnh sát mặc cảnh phục đứng trong đại sảnh, trông chừng một cô gái trẻ đang vẽ ký họa, cảnh tượng này khó mà không khiến người khác chú ý. Diêm Thác liếc sang một cái, nhưng dường như không hứng thú, rất nhanh liền thu lại tầm mắt, đi thẳng về phía quầy lễ tân.
Nhiếp Cửu La mấy nét chấm phá đã hoàn thành bức chân dung, đưa cho cảnh sát già.
Cảnh sát già không kìm được thốt khẽ, “Hơ!” - bức họa này thật sự tuyệt vời. Điều quan trọng hơn là gương mặt kia quá “có đặc điểm”, cực kỳ dễ nhận diện. Do nghề nghiệp, ông ta sợ nhất là những gương mặt “phổ thông”, phát lệnh truy nã ra cũng như muối bỏ biển, dù có người dân nhiệt tình cũng chẳng nhận ra.
Ông đem tờ giấy tới quầy lễ tân, nhờ khách sạn photo một bản lưu lại, dặn dò nhân viên buồng phòng, bếp và bảo vệ đều phải nhận diện, xem có ai từng thấy gương mặt này chưa.
Lúc đó, nhân viên phục vụ đang làm thủ tục nhận phòng cho Diêm Thác, nhưng cũng không dám chậm trễ với cảnh sát, vội đưa tay nhận lấy. Giống như cảnh sát già, phản ứng đầu tiên của cô cũng là khen ngợi: “Thật có tài, chưa tới mười phút đã vẽ xong rồi.”
Cảnh sát già mỉm cười: “Người ta là dân chuyên, có căn cơ.”
Diêm Thác cũng nhìn sang bức vẽ. Quả thật vẽ rất đẹp, gương mặt sống động, thần thái và đặc điểm đều được nắm bắt chuẩn xác.
Tuy nói cảnh sát là trách nhiệm công việc, nhưng nửa đêm còn phải đến xử lý, cũng coi như vất vả rồi. Nhiếp Cửu La tiễn họ ra tận cửa khách sạn mới quay về, đi được mấy mét đã thấy Diêm Thác đang chờ thang máy.
Cô bước đến, cùng anh ta chờ.
Thang máy đến, vì phép lịch sự, Nhiếp Cửu La hơi nghiêng người nhường chỗ cho người mang hành lý vào trước. Khi cô bước vào, định bấm số tầng thì tay vừa đưa lên đã hạ xuống - anh ta đã bấm rồi, cũng ở tầng bốn.
Nhiếp Cửu La đứng sang một bên, giữ khoảng cách xã giao, mắt dán vào cửa thang máy, chỉ chờ nó mở ra để bước đi ngay.
Trên cánh cửa thép mờ mờ phản chiếu bóng hai người. Có thể thấy, Diêm Thác hoàn toàn không quan tâm đến bạn đồng hành, chỉ một mực muốn về phòng.
Anh ta đến cánh đồng ngô ở hương Hưng Bá Tử làm gì vậy? Trộm ngô chắc? Còn nữa, con vịt kia thì sao? Tại sao không mang lên phòng, lại để nó một mình cô độc trong xe qua đêm?
Cơn buồn ngủ ập đến, Nhiếp Cửu La cúi đầu che miệng, ngáp một cái.
Đúng lúc này, Diêm Thác bất ngờ nghiêng đầu, nhanh như chớp liếc nhìn cô.
Thang máy dừng, Nhiếp Cửu La nhanh chân bước ra trước, Diêm Thác theo sau. Phòng hai người thực ra ở hai hướng khác nhau, nhưng anh ta không vội về, mà đứng ngay cửa thang máy, dõi theo Nhiếp Cửu La, cho đến khi thấy rõ cô vào căn phòng áp cuối bên trái hành lang.
Nhiếp Cửu La về phòng, rửa mặt qua loa rồi lên giường. Nhưng cô chưa vội tắt đèn, lấy túi bút trên đầu giường, rút ra giấy bút, suy nghĩ chốc lát rồi bắt đầu viết.
Cô viết ba điều:
Một, ban ngày Tôn Châu bị chó cắn, buổi tối lại bị người ta nhét vào túi vải bố mang đi, đã báo cảnh sát.
Hai, ở Hưng Bá Tử có một phụ nữ nghi ngờ mất tích.
Ba, hai lần gặp một người đàn ông tên Diêm Thác, trên ghế phụ trong xe anh ta có một con vịt đồ chơi.
Cuối cùng ghi ngày tháng năm. Viết xong, cô gấp mảnh giấy dài thành một ngôi sao ba chiều, nheo mắt ngắm cái vali không xa, rồi ném nó vào trong.
Cô viết mấy điều này chẳng phải để phân tích gì, mà chỉ là thói quen, mỗi ngày đem những chuyện ấn tượng hoặc mới lạ ghi lại, gấp thành sao lưu giữ. Người khác gấp sao cầu may, cô coi như viết nhật ký.
Mỗi ngày một ngôi sao, vài câu chữ là xong, một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngôi. So với viết nhật ký dễ duy trì hơn nhiều. Ở nhà cô đã có hẳn hai thùng lớn chứa đầy sao, bao nhiêu năm tháng cũng chỉ đúc kết được hai thùng ấy. Thời gian thật vừa nặng nề, lại vừa mỏng manh.
Khi rảnh rỗi, cô sẽ mở thùng, ngẫu nhiên bốc một ngôi sao, tháo ra để gặp lại một ngày trong quá khứ - có lúc, chuyện ghi trên giấy cô vẫn còn nhớ, nhiều lúc thì đã quên sạch từ lâu.
Đây là ngày thứ bảy Nhiếp Cửu La ở Thiểm Nam, trong vali đã có bảy ngôi sao.
Nhiếp Cửu La tắt đèn, mệt rũ liền chìm vào giấc ngủ.
Lại mở mắt thì cảm thấy mình đã ngủ rất lâu, nhưng trong phòng tối om, chạm vào điện thoại mới biết chỉ mới ngủ được hai tiếng.
Nằm thêm lát, cô nghe tiếng mưa lộp bộp ngoài cửa sổ - chuyện “trăng quầng đêm ba mưa”, câu xưa thật linh nghiệm, quả nhiên trời đang mưa.
Dù sao cũng không ngủ được nữa, Nhiếp Cửu La dậy đi tè rồi khi trở vào kéo rèm cửa sổ đối diện chiếc giường lớn mở ra, rồi nằm xuống.
Đó là thói quen của cô, khi mất ngủ thích “nhìn cửa sổ đêm”. Trong phòng tối đen, bên ngoài thường lóe lên những ánh sáng mờ ảo, trong tối ngoài sáng, người ta có một cảm giác an toàn kỳ lạ, như đang nằm trong con mắt bí mật nào đó, nhìn trộm thế giới bên ngoài, nhiều ý tưởng sáng tác của cô đến trong những lúc “nhìn trộm” như thế.
Mưa đã rơi được một lúc, nước vương đầy trên kính với đủ vết mưa loằng ngoằng, vệt nước phản chiếu ánh đèn hiệu từ xa gần bốn phía, như có một giấc mơ treo trên ô cửa, rực rỡ mà hơi sền sệt.
Suy nghĩ cô lại quay về tác phẩm đang làm, một phù thủy.
Phù thủy đúng ra phải lảng vảng trong đêm và bóng tối, nét mặt và cử chỉ nên mang vẻ quỷ dị, chuyện ăn đầu người thì quá bề ngoài và máu me, trong văn chương có ý “không viết một chữ mà vẫn toát hết phong lưu”, điêu khắc cũng nên giản lược để đạt sự tinh tế…
Đang nghĩ vậy, mép dưới của cửa sổ lóe lên một bóng đen đang rên rỉ bò lên.
Nhiếp Cửu La không để ý lắm, nhìn cửa sổ đêm lâu quen rồi, thường hay thấy mấy chuyện kiểu này, có khi là chim, có khi là mèo, có lần khác khi đi thực địa gần thảo nguyên, ngủ trên bãi cỏ, nửa đêm bỗng thấy một con chồn đất run rẩy đứng ngoài cửa sổ.
Nhưng lát sau cô không thể tiếp tục lờ đi, bóng đen đang bò lên, không phải mèo hay chim, phần lúc trước bò rên rỉ là cái đầu người, phía dưới nối tiếp bả vai và cánh tay.
Hóa ra là người sao?
Nhiếp Cửu La nằm im, tim không ngừng đập mạnh, tầng bốn cơ mà, trèo lên mặt đứng của tòa nhà thế này, dù là muốn trộm hay muốn làm hại, có hơi quá lộ liễu không? Hơn nữa nhìn bằng mắt thường không thấy người ấy có dây móc hay dụng cụ bám leo, không thấy móc hút, leo kiểu đó làm sao nổi?
Chẳng lẽ trong khách sạn có kẻ quyền thế, phải thuê chuyên gia đến làm việc lớn như vậy, đêm khuya mò vào để đánh cắp bí mật?
Vài giây nữa, não cô lạnh buốt.
Bóng đen dừng ngay trước cửa sổ cô, nửa người chồng lên, cuộn lại như một u bướu lạ.
Trên cửa sổ vọng đến tiếng khóa cọ và mài, rõ ràng người đó đang cố mở cửa.
Nửa đêm có người ở ngoài cửa sổ đã đủ rùng rợn, nhưng nếu người đó không nhắm vào mình thì chỉ giật mình một cái, còn nếu nhắm vào mình thì khác, hơn nữa, cửa sổ khách sạn lại là loại cửa có chốt rất dễ bị cạy.
Nhắm vào cô sao? Gần đây cô có thù hằn gì ai không? Có kẻ thù đeo bám mấy năm không buông không? Cô có mang theo thứ gì khiến người ta tham lam không?
Không, chẳng có gì cả, cô mới tới đây bảy ngày trước, trước đó hơn mười năm chưa về Thiểm Nam.
Có thoáng chốc Nhiếp Cửu La muốn bật đèn, nhưng cô nghĩ kỹ, bật đèn quá dễ làm động, người ngoài cửa sẽ khuất dạng ngay khi ánh sáng lóe lên, khi ấy cô sẽ khó biết lai lịch và dụng ý của người kia.
Phải để người đó vào trong phòng, đã vào rồi thì dễ xử lý hơn.
Nhiếp Cửu La nín thở, lợi dụng bóng tối trong phòng, nhẹ như không động vươn tay về phía đầu giường tìm thứ gì đó để tự vệ.
Ngón tay nhanh chóng chạm tới một chiếc bút chì, và cả con chuốt chì.
Cô rút tay về, mắt dán chặt vào bóng đen ngoài cửa sổ, đồng thời lấy chiếc chăn rủ qua mép giường che bàn tay, chọc đầu bút vào miệng chuốt rồi từ từ xoay.
Cạo chì mài bút là việc cô làm không biết bao lần, dù không nhìn cũng cảm nhận được từng vụn gỗ mỏng bị bào xoắn dần rơi lả tả, và biết độ bén của ngòi bút đến đâu.
Cửa sổ bật mở, tiếng mưa rõ ràng hơn, hơi lạnh ẩm nhanh chóng tràn vào căn phòng ấm mà ngột ngạt.
Sợ ánh sáng yếu của mắt có thể khiến người ngoài cảnh giác, Nhiếp Cửu La khép hờ đôi mắt, dồn hết tinh lực lắng nghe mọi động tĩnh quanh mình, lưng cô đã ra mồ hôi lạnh.
Cô cảm thấy người đó thực sự đang nhắm tới mình.
Đúng vậy, ngay cả nhắm mắt cũng có thể nhận ra sự thay đổi mơ hồ của ánh sáng trước mặt, người đó đã đứng ở đầu giường, nhìn cô.
Không phải vì tiền, người này chẳng có vẻ ham của, vậy là vì sao, hiếp dâm chăng? Vẻ đẹp của cô thời cấp hai, cấp ba quả thực từng khiến vài cậu con trai trèo tường bới cửa, nhưng những bức tường đó cao nhất cũng chẳng tới hai mét.
Cảm giác thô ráp truyền vào cổ họng cô, đó là bàn tay cứng như khớp xương của một người đàn ông vòng tới, gần như nắm chặt một nửa cổ cô.
Một dự cảm chẳng lành tràn lên trong lòng Nhiếp Cửu La, cô như sáng tỏ trong chớp mắt.
Người này muốn giết cô!
Nhiếp Cửu La cực kỳ phẫn nộ, cô vốn là người tuân thủ pháp luật, chết tiệt đã làm thù oán với ai mà tới mức bị giết ngay không một lời?
Nếu anh tới để trộm tiền, thì cô hét lên kêu người giúp là xong.
Nếu anh muốn hãm hiếp, cô sẽ dùng dao chọc vài lỗ cho chảy máu khắp người anh.
Nhưng nếu anh tới để giết cô…
Đúng vào lúc bàn tay to ấy sắp siết chặt mạnh, cô bất chợt mở mắt, vội giơ tay, dồn hết sức, cắm mảnh bút chì đã bị nắm đến ướt mồ hôi ấy thật mạnh vào mắt trái của người đàn ông.