Lên nhã tọa tầng hai của Thiên Hương cư, Uẩn Đường bất ngờ chạm mặt Liễu Kỳ. Cách đó ba bàn, Lăng Kiêu đang ngồi, xa xa gật đầu với nàng coi như chào hỏi.
Liễu Kỳ và Lăng Kiêu tuy đã có hôn ước, nhưng ở bên ngoài vẫn giữ lễ nghi quy củ.
Uẩn Đường ngồi xuống bàn bên cạnh Liễu Kỳ. Khi dùng bữa, sắc trời dần tối lại.
Trăng lên đầu ngọn liễu. Uẩn Đường nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy đèn đuốc lần lượt sáng lên.
Du khách qua lại ngắm đèn không ngớt, tiếng nói cười, tiếng trầm trồ khen ngợi vang lên không dứt.
Đại Tĩnh nhiều năm quốc phú dân an, bách tính an cư lạc nghiệp. Đặc biệt năm nay, Bệ hạ mới lên ngôi, đại xá thiên hạ, khiến hội đèn lồng càng thêm phồn hoa náo nhiệt.
Thơ rằng: “Trăng sáng đèn hoa rực đế thành, xe thơm kiệu báu ải thông hành.” Quả đúng là cảnh tượng trước mắt.
Ánh đèn chiếu rọi nụ cười của du khách. Uẩn Đường thấy Liễu Kỳ và Lăng Kiêu ẩn mình trong đám đông, nắm tay nhau cùng đi dạo.
Tết Thất Tịch, vốn nên là như vậy.
“Các ngươi cứ đi dạo đi, không cần ở đây với ta.”
Thải Đào tuy lòng đã hướng về hội đèn lồng, nhưng vẫn lắc đầu: “Như vậy sao được, nô tỳ phải đi theo tiểu thư.”
“Không sao, ta ở ngay đây. Nửa canh giờ sau các ngươi quay lại tìm ta là được.”
“Vâng.” Thấy Uẩn Đường muốn ở một mình, Thải Lê kéo tay áo Thải Đào: “Vậy tiểu thư, chúng nô tỳ sẽ quay lại ngay.”
“Đi đi.” Uẩn Đường cười nói.
Thải Lê và Thải Đào theo lời xuống tầng hai, nhanh chóng hòa vào dòng người du ngoạn.
Uẩn Đường đã dặn trước, đêm nay mọi chi tiêu đều ghi vào sổ công của phủ, không cần câu nệ.
Chợ đèn náo nhiệt, nhưng bên trong quán rượu lại yên tĩnh hơn hẳn.
Uẩn Đường gọi thêm một ấm Bích Đình Xuân hảo hạng của Thiên Hương cư, thản nhiên thưởng trà.
Nhã tọa sát cửa sổ, phong cảnh tuyệt đẹp.
Trăng soi nhân gian, Uẩn Đường chợt nhớ mấy câu thơ từng đọc khi còn nhỏ:
“Sáo từ mặc nguyệt xuyên kim, hoa vào lầu phơi áo.
Trời cao chia gương vàng, nhân gian ngóng móc ngọc.”
Hồi ấy, đúng dịp Tết Thất Tịch, Bùi Hàm vừa được phong Vương tước, chuyển ra phủ riêng bên ngoài. Hắn mời Uẩn Đường cùng đi dạo.
Tại hội đèn lồng, Bùi Hàm đã tặng Uẩn Đường một chiếc đèn Thỏ Ngọc mà nàng rất yêu thích.
Dù chỉ là món đồ bình thường trong dân gian, Uẩn Đường lại đặc biệt quý mến chú thỏ nhỏ được vẽ trên mặt đèn, giữ gìn suốt một thời gian dài.
Thế nhưng, sau khi hiểu lầm chuyện giữa Bùi Hàm và Liễu Kỳ, nàng đã ném chiếc đèn lồng vào nhà kho. Giờ đây chẳng thể tìm lại nó nữa.
Có lẽ chẳng thể phủ nhận, Uẩn Đường và Bùi Hàm cuối cùng vẫn hữu duyên mà vô phận.
Uẩn Đường uống xong hai chén trà, vô tình liếc mắt thấy một gian hàng náo nhiệt ven đường. Trên đó, một chiếc đèn lồng hình thỏ ngọc treo lặng lẽ.
Nàng chợt nảy ra ý nghĩ, chưa kịp suy xét nhiều, liền dặn tiểu nhị trong quán giữ chỗ rồi bước về hướng đó.
Đi ngang một tiệm nhỏ bên cạnh Thiên Hương cư, nàng tiện tay chọn lấy một chiếc mặt nạ hoa hải đường, che đi phần lớn dung mạo.
Xuyên qua đám đông, Uẩn Đường thuận lợi đến trước mặt người bán hàng rong. Trên gian hàng, những dải lụa đỏ ghi đầy câu đố đèn lồng phấp phới trong gió.
Nàng chỉ vào một chiếc đèn thỏ treo trên cao, cất tiếng hỏi:
“Chủ quán, chiếc đèn lồng này bán thế nào?”
Giữa không gian ồn ào, người trẻ trông coi gian hàng nghe rõ lời nàng, mỉm cười xua tay:
“Cô nương thật tinh mắt. Chỉ là chiếc đèn lồng này là vật may mắn, do ông nội tại hạ tự tay làm, không bán.”
Trong mắt Uẩn Đường thoáng chút thất vọng. Người bán hàng tiếp lời:
“Nếu cô nương trả hai mươi văn tiền để đoán đố đèn, đoán đúng liên tiếp tám câu, thì chiếc đèn lồng này sẽ thuộc về cô nương.”
“Được.”
Uẩn Đường nhận lời, đưa tiền qua. Chủ quán lại có chút khó xử:
“Nhưng những câu đố đèn này thường dành cho hai người cùng đoán, cô nương chỉ có một mình...”
“Không sao, ta một mình cũng được.” Uẩn Đường đặt xuống một xâu tiền đồng. “Không biết có thể châm chước được không?”
Chủ quán hào phóng đáp:
“Cô nương muốn thì tự nhiên là được.”
Rồi ông lấy câu đố đèn ra:
“Vẽ thì tròn, viết thì vuông, có nó ấm, không nó lạnh. Là chữ gì?”
Uẩn Đường suy nghĩ một chút rồi trả lời:
“Là chữ ‘日’.”
Chủ quán gật đầu khen ngợi:
“Hay. Lại có câu ‘Thiên lý Giang Lăng một ngày về’, là thành ngữ gì?”
Uẩn Đường đáp ngay:
“Nhất nhật thiên lý.”
Bốn câu đố đầu đều không khó, đoán đúng hai câu là có thể nhận được một chiếc đèn lồng nhỏ, chắc để người chơi không phải ra về tay không, tránh mất hứng.
“Câu thứ năm, ‘Một khi mây tan lại thấy trời’, là chữ gì?”
Mọi người xung quanh bàn tán, mạc trung nhất thị. Uẩn Đường khua tay trong lòng bàn tay, suy nghĩ rồi nói:
“Có phải là chữ ‘昙’ không?”
Lão chủ quán lớn tuổi hơn khen ngợi:
“Cô nương thật lợi hại. Từ lúc bày hàng tối nay, lão vẫn chưa thấy ai đoán trúng liên tiếp năm câu đâu. Câu tiếp theo, mời cô nương nghe cho kỹ: ‘Trong gió đi rồi lại đến, trước núi nhạn bay thành hàng nghiêng’, là một loại hoa gì?”
Uẩn Đường nhanh chóng đáp:
“Là hoa phượng tiên.”
Người xem ngày càng đông, nhưng nàng đeo mặt nạ nên không để ý.
“Còn hai câu đố nữa, cô nương phải cẩn thận đấy.” Người bán hàng trẻ tuổi hắng giọng, lấy ra hai câu đố cuối cùng. “Tháng hai, tháng ba đâm chồi nảy lộc, tháng tư, tháng năm, tháng sáu ra hoa kết quả, tháng bảy có đen có trắng, ba tháng cuối năm treo đèn kết hoa. Đây là vật gì?”
“Tháng hai, tháng ba đâm chồi nảy lộc, tháng tư, tháng năm…” Uẩn Đường tập trung suy nghĩ nhưng vẫn chưa tìm ra manh mối.
Mọi người xung quanh bàn tán xôn xao, rõ ràng câu đố ngày càng khó hơn.
“Cô nương đã nghĩ ra chưa?”
Uẩn Đường ngẫm nghĩ một lúc, nhưng vẫn không tìm ra đáp án, cuối cùng lắc đầu. Ngay khi nàng định từ bỏ, một giọng nói bất ngờ vang lên bên tai: “Là cây hồ đồng.”
Dân chúng vây quanh lập tức hướng về phía phát ra tiếng nói, tự nhiên dạt ra, nhường một lối đi.
Uẩn Đường ngạc nhiên ngẩng đầu, ánh mắt chạm vào một bóng hình quen thuộc.
Người vừa đến cũng đeo nửa chiếc mặt nạ cáo bạc, giống như Uẩn Đường, bước đến bên cạnh nàng một cách tự nhiên.