Tơ trúc réo rắt, du dương êm tai. Trong Lưu Ly cung, ca múa thanh bình.
Hy Hòa tựa người trên chiếc giường cẩm thạch kim tuyến, nhâm nhi chén rượu hai mươi năm được ướp lạnh, ánh mắt lười biếng.
Trên vũ trì có một thiếu niên áo đỏ nhảy cực đẹp, bầy yến yến oanh oanh xung quanh đều làm nền cho hắn.
Hy Hòa gỡ bông hoa bằng ngọc cài trên đầu xuống, ném cho thiếu niên, thiếu niên đảo người một cái trên không, bắt lấy, ánh mắt lấp lánh, nói: “Đa tạ phu nhân ban thưởng”.
Hy Hòa nhìn hắn cười rạng rỡ không nói gì, góc mày khóe mắt có phần lẳng lơ. Nàng ta ngang nhiên liếc mắt đưa tình hoàn toàn không đếm xỉa đến sự tồn tại của người bên cạnh như thế, mà Chiêu Doãn kế bên cũng không nổi giận, thấy chén rượu của Hy Hòa rỗng không, còn rót đầy cho nàng ta.
Cứ vui vẻ như thế đến khoảng giờ Tuất, bỗng từ xa vọng lại tiếng bước chân gấp gáp, tên tiểu thái giám hớt hơ hớt hải chạy trên bậc thang dài, vừa chạy vừa kêu: “Hoàng thượng, không hay rồi! Hoàng thượng, không hay rồi…”.
“Câm mồm! Đây là chốn nào mà dám la lối om sòm?”. Đại thái giám đi cùng vội vàng chạy tới giáo huấn.
Tiểu thái giám ngã nhào xuống đất, khi nhỏm dậy mặt mũi đã nhòe nhoẹt nước mắt: “Khởi bẩm hoàng thượng, Kỳ Úc hầu và đoàn đi sứ Trình quốc đã bị hoàng tử Di Phi của Trình quốc ám toán phục kích ở Hồi thành, hầu gia trúng tên độc không thể chữa trị, đã bỏ mạng!”.
“Ngươi nói cái gì?”. Hy Hòa nhảy dựng lên, chiếc váy dài kéo lê khiến mỹ tửu sơn hào hải vị trên chiếc bàn thấp đều rơi loảng xoảng xuống đất.
Cùng với tiếng kêu sửng sốt của nàng ta, tiếng nhạc ngừng bặt, ca múa tạm dừng, trong đại điện lặng như tờ.
Chiêu Doãn liếc mắt nhìn Hy Hòa một cái, thủng thẳng nói: Nghe thấy chưa? Nói lại lần nữa”.
Tiểu thái giám sụt sịt vừa khóc vừa nói: “Hoàng thượng, khi Kỳ Úc hầu đến Hồi thành thì bị tam hoàng tử của Trình quốc ám sát, thân trúng tên độc, không thể chữa trị, nên đã bỏ mạng! Nô tài Tiết Thái hiện đang ôm di thể của hầu gia đợi ngoài điện, xin được diện kiến hoàng thượng!”.
Hy Hòa không kịp xỏ giầy lập tức xông ra ngoài, đôi chân trần giẫm lên những mảnh gốm vỡ, bị cứa rách chảy máu, nhưng dường như nàng ta không cảm thấy gì, cứ thế lao vút đi, mái tóc và chiếc váy tung bay giống như một ngọn lửa rực cháy.
…Tiết Thái đang quỳ ngoài cửa điện, thứ đầu tiên hắn nhìn thấy chính là cảnh tượng này.
Giây sau đó, ngọn lửa ấy xông đến trước mặt hắn, một tay tóm chặt cổ áo hắn giống như định nhấc bổng cả người hắn lên, thét lớn: “Cơ Anh đâu? Hắn ở đâu? Gọi hắn ra đây? Gọi hắn ra đây…”.
Ánh mắt Tiết Thái nhìn mặt đất bên cạnh.
Hy Hòa hướng theo ánh mắt của Tiết Thái liền thấy một chiếc hòm. Nàng ta ngây ra một lát, sau đó đi đến bên cạnh chiếc hòm, dừng lại, nhìn chằm chằm vào chiếc hòm đó, vẻ mặt vừa sợ hãi vừa hoảng hốt vừa nghi hoặc lại vừa do dự, cuối cùng, nghiến chặt răng, đưa tay mở chiếc hòm ra. Gương mặt khiến nàng ta kiếm tìm cả trong giấc mộng, quen thuộc đến không thể quen thuộc hơn đó, bỗng gần ngay trước mắt.
Cơ Anh nhắm mắt, nét mặt hiền hòa, giống như đang say giấc.
Nhưng lại chỉ có một cái thủ cấp.
Hy Hòa sững sờ nhìn cái thủ cấp đó, lùi về phía sau một bước, hai bước, ba bước rồi ngã phịch xuống đất.
Bấy giờ, những người khác cũng lần lượt từ trong Lưu Ly cung bước ra, nhìn thấy chiếc hòm đó, không ai là không kinh hãi.
Duy chỉ Chiêu Doãn mặt không biểu cảm nhìn đầu Cơ Anh, cau mày một cái, lạnh lùng quát: “Nô tài to gan, ngươi dám xử lý di thể của Cơ khanh như thế này sao?”.
Tiết Thái dập đầu, cao giọng tấu: “Hồi bẩm hoàng thượng trên mũi tên bắn trúng chủ nhân có chất kịch độc, ngoài phần đầu ra các bộ phận khác đều bị nát rữa rồi”.
Chiêu Doãn há miệng, trong mắt thoáng vẻ đau lòng, đang định nói điều gì thì một tràng cười vang lên tận tầng mây. Mọi người kinh ngạc quay đầu, hóa ra là Hy Hòa phu nhân đang cười.
“Phu nhân”. Một cung nhân dè dặt thăm dò.
Hy Hòa ngồi trên đất, ngửa đầu cười như điên như dại, mọi người không biết nàng ta cười gì, nên vừa nghi hoặc vừa sợ hãi.
Có một cung nữ bước lên phía trước, định dìu nàng ta đứng dậy, nhưng bị nàng ta cắn mạnh vào cánh tay, cung nữ kêu lên thảm thiết vừa bò vừa lăn tránh ra.
Hy Hòa cười tiếp: “Ha ha ha ha…”.
Có người thì thào: “Phu nhân… hình như phu nhân có gì đó là lạ, đi tìm thái y đến khám xem sao?”. Thấy Chiêu Doãn vẫn lạnh lùng đứng bên quát không tỏ thái độ gì, thì ai dám tự ý hành động, mọi người đành đứng phỗng ra đó.
Hy Hòa vừa cười vừa loạng choạng đứng dậy, chạy về Bảo Hoa cung.
Mọi người chỉ có cách chạy vào trong điện theo nàng ta.
Những kẻ nhảy múa trước đó vì không biết xảy ra chuyện gì mà lại chưa được cho phép rời đi, nên đành đứng chụm đầu chuyện trò ở giữa vũ trì, nhìn thấy Hy Hòa phu nhân quay về, vừa định thở phào thì thấy nàng ta xiêu xiêu vẹo vẹo chạy đến trước mặt thiếu niên áo đỏ. Thiếu niên áo đỏ vừa mừng vừa ngạc nhiên, nụ cười vừa nở trên môi, thì ngay lúc đó liền bị Hy Hòa đẩy mạnh vào tường.
“Phu, phu… nhân?”.
Hai tay Hy Hòa bắt đầu thô bạo cởi quần áo của y.
Đám cung nhân ở bên thất sắc kinh hoảng, vội vàng xông lên ngăn lại: “Không nhân, không được! Phu nhân, dừng tay đi phu nhân định làm gì thế?”.
Hy Hòa đều không để vào tai, giật mạnh chiếc áo đỏ của thiếu niên nọ, dán mắt nhìn vào đó một lúc lâu, còn thiếu niên bị lột lớp áo ngoài cũng đứng ngây ra đó, hoàn toàn không hiểu đang xảy ra chuyện gì.
Y nở nụ cười ngọt ngào, ngại ngùng”Phu nhân… phu nhân sao thế?”.
Hy Hòa lắc đầu một cái rồi lại bỏ chạy.
Các cung nhân đành tiếp tục chạy theo nàng ta.
Hy Hòa chạy ra khỏi cung điện, chạy đến trước chiếc hòm nọ, mở chiếc áo bào trong tay ra, vừa quàng lên chiếc thủ cấp vừa nói: “Không lạnh, không lạnh, Tiểu Hồng, không lạnh. Tiểu Hồng, Tiểu Hồng…”. Hai từ bình dị nhất trên thế gian phát ra từ miệng nàng lại dịu dàng lưu luyến vô cùng.
Tiết Thái choáng váng, nhớ lại hôm đó khi ở trên thuyền Cơ Anh từng nói với hắn: “Đối với ngươi luôn có một người không giống những người khác, vì thế, cũng sẽ dùng một cái tên khác để gọi ngươi… Tiểu Hồng, chính là cái tên đặc biệt đó của ta”.
Tiểu Hồng…
Dù biết Cơ Anh có một tình nhân khắc cốt ghi tâm nhưng có duyên mà không có phận;
Dù biết người tình đó gọi Cơ Anh là Tiểu Hồng;
Mà sao lúc này khi tận tai nghe thấy, tận mắt nhìn thấy người tình đó của Cơ Anh, Tiết Thái lại cảm thấy bị sốc nặng như thế này, tay hắn rụt vào trong tay áo, chạm phải chiếc bản chỉ mà Cơ Anh đưa cho lúc lâm chung, hắn cảm thấy chiếc bản chỉ như đang thiêu đốt bàn tay mình, trong khoảnh khắc, toàn thân hắn nóng bừng lên.
Còn Hy Hòa chẳng thèm nhìn ai, chẳng thèm ngó ai, chỉ cầm chiếc áo đỏ quấn hết vòng này đến vòng khác, giọng như đang nói mơ: “Không lạnh, phải không? Tiểu Hồng, ta hát cho chàng nghe nhé, hễ ta hát là chàng không lạnh đâu”.
Sau đó nàng ta bắt đầu tiếng hát.
Đây là lần đầu tiên Tiết Thái nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.
Đây là lần đầu tiên mọi người nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.
Thậm chí đây cũng là lần đầu tiên Chiêu Doãn nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.
Từ trước tới nay, Hy Hòa phu nhân chìm đắm trong nhung lụa vàng son, nhưng đều chỉ nghe người khác đàn ca diễn xướng, vì thế, cho dù mọi người biết nàng ta thích ca múa nhưng không ngờ hóa ra nàng ta cũng biết hát.
Nàng ta chăm chú nhìn thủ cấp của Cơ Anh, chuyên tâm hát, tiếng hát càng lúc càng réo rắt, giống như ngọn gió lướt qua sơn cốc đẩy muôn tầng sóng biếc; giống như vô số hạt mưa rơi tí tách trên hiên nhà biến thành những giọt châu bay bay lóng lánh; giống như làn sương dâng lên mênh mang trên mặt hồ dưới đêm trăng; giống như hạt cát bị gió thổi bay phiêu điêu khắp chốn.
Nàng ta hát còn hay còn đẹp hơn bất cứ loại nhạc cụ nào.
Nói cách khác, tiếng hát của nàng ta chính là loại nhạc cụ tuyệt diệu nhất thiên hạ.
Nàng ta hát rằng: Trăng mọc chừ, nước mênh mang Tựa ngọc chừ, tựa dáng chàng.
Mơ hồ nhận ra khúc cố nhân, biết được vạn năm si mê.
Biển xanh đẫm lệ mấy ai hay?
Rả rích đêm ngày mưa chẳng ngớt.
Ngày xuân đương đẹp muôn hoa nở, Sao nỡ úa tàn ai xót thay?
Cầu đến tiên nhân hái thược dược, Tam sinh xin nối duyên kiếp này.
Hồng trần xa lắc trời đất rộng, Xuân thu bất tận mãi vui vầy.
…
Nàng ta hát hết lần này đến lần khác, tiếng hát bay bổng trên cung điện, vương vấn mãi không tan.
Tiết Thái nhẩm lại câu “Cầu đến tiên nhân hái thược dược, tam sinh xin nối duyên kiếp này”, trong Phút chốc không kiềm được thoáng ngẩn ngơ. Nếu hắn không nhầm thì lời bài hát này là do Cơ Anh viết, Cơ Anh của năm đó rốt cuộc đã ôm một khối tình si đến nhường nào mới có thể viết ra khúc ca này, và đã dùng phương thức thân thiết đến nhường nào để dạy nó cho Hy Hòa, tình cảm chứa đựng trong đó, không cần nghĩ cũng có thể biết được.
Mọi người trong phút chốc hết thảy đều bị cảm động trước khúc ca tuyệt mỹ này, im lặng lắng nghe.
Duy chỉ Chiêu Doãn, nỗi căm hận dần dần dâng lên trong mắt, cuối cùng y bước lên phía trước nắm chặt tay Hy Hòa, quát: “Đủ rồi”.
Hy Hòa giật tay lại, đẩy thật mạnh, ôm lấy cả chiếc hòm đứng lên, lùi từng bước về phía sau, nói: “Không cho ngươi qua đây! Ngươi sẽ cướp áo của Tiểu Hồng, ngươi sẽ làm chàng lạnh chết, không cho ngươi qua đây!”.
Chiêu Doãn sững ra một lúc, kế đó giận dữ quát: “Nàng đang nói linh tinh gì thế,mau đặt di cốt của Kỳ Úc hầu xuống!”.
Hy Hòa ôm khư khư chiếc hòm trong lòng, tiếp tục lùi lại: “Đây là của ta, Tiểu Hồng là của ta, ngươi không thể cướp của ta!”.
“Người đâu!”. Chiêu Doãn liếc mắt, lập tức có mấy tên thị vệ xông lên đoạt lấy chiếc hòm, Hy Hòa giãy giụa điên cuồng, vừa cắn vừa xé, nhất quyết không buông tay, đám thị vệ cũng không dám động thủ với nàng ta, hai bên cứ giằng co như thế.
Chiêu Doãn tức đến mức nghẹt thở, mắng: “Các ngươi làm cái gì vậy? Mau bắt nàng cho trẫm”.
Đám thị vệ nói một tiếng “đắc tội” rồi hai tên xông lên tóm lấy cánh tay Hy Hòa, giữ nàng ta không cựa quậy nổi, một tên khác lại bẻ những ngón tay của nàng ra, chỉ nghe “rắc” một tiếng, xương ngón tay của Hy Hòa gãy lìa.
Mặt Chiêu Doãn biến sắc, y giậm chân nói: “Dừng tay! Dừng tay! Dừng tay cho trẫm. Các ngươi dám làm nàng bị thương! Đồ bỏ đi! Toàn một lũ bỏ đi!”.
Đám thị vệ không dám đoạt chiếc hòm nữa, vì làm Hy Hòa bị thương nên bị hoàng thượng khiển trách, không tên nào dám động đậy.
Đang lúc bó tay hết cách, một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên: “Hoàng thượng để thần thiếp thử xem sao!”.
Chiêu Doãn quay đầu nhìn thấy Khương Trầm Ngư.
Dưới ánh tịch dương còn le lói, Khương Trầm Ngư toàn thân áo lụa màu lam nhạt, mái tóc đen như mun chải ra phía sau, tuy sắc mặt có vẻ mệt mỏi, nhưng ánh mắt sáng rỡ, không nhuốm bụi trần tựa tiên giáng trần vậy.
Nàng quay về lúc nào? Sự nghi hoặc lóe lên trong đầu Chiêu Doãn, nhưng lập tức lại bị sự lo lắng thế chỗ, y gật đầu nói: “Được, nàng đến thử xem!”.
Khương Trầm Ngư bước chầm chậm về phía Hy Hòa, nói với đám thị vệ: “Thả phu nhân ra”.
Thị vệ lần lượt buông tay.
Hy Hòa vừa được thả là lập tức ôm chiếc hòm lùi về phía sau, cảnh giác nhìn chằm chằm Khương Trầm Ngư, vẻ mặt cực kỳ sợ sệt.
Bài nàng hát chính là khúc ca Hy Hòa vừa hát ban nãy. Chính xác từng chữ một.
Giọng ca tuy không hay bằng Hy Hòa nhưng âm điệu rất chuẩn. Nếu nói tiếng hát của Hy Hòa có vẻ đẹp diễm tuyệt như mẫu đơn khuynh đảo thiên hạ thì tiếng hát của Khương Trầm Ngư lại có mùi hương thanh nhã của gỗ đàn hương dùng để chế tác bàn cờ đặt bên cạnh chén rượu mới nấu, dư âm văng vẳng kéo dài.
Hy Hòa trợn trừng đôi mắt mờ đục như sương mù, đứng im không nhúc nhích lắng nghe, vẻ cảnh giác phòng bị trên gương mặt đần dần nhạt đi.
Khương Trầm Ngư hát xong liền dừng lại tươi cười nhìn nàng ta: “Bài hát này đẹp quá. Đúng không?”.
Hy Hòa ngây ngây dại dại nhìn nàng, không nói gì.
Khương Trầm Ngư tiến thêm một bước về phía nàng ta, giọng nói càng lúc càng mềm mỏng: “Tiểu Hồng buồn ngủ rồi, để chàng ngủ một giấc thật ngon, được không?”.
Hy Hòa lại ngây ngây dại dại cúi đầu nhìn chiếc hòm trong tay, ánh mắt dán chặt lên mặt hòm, ngàn vạn nỗi đau đớn trong lòng thoáng cái đã biến thành hơi nước mịt mờ.
Cứ vậy Khương Trầm Ngư lại tiến lên một bước nữa: “Tiểu Hồng có quần áo rồi, chàng không lạnh đâu, nhưng lúc này chàng đang rất buồn ngủ, rất buồn ngủ, chàng muốn đi ngủ. Đưa chàng cho ta, được không?”.
Hy Hòa ngay tức khắc ngẩng đầu nhìn nàng cảnh giác. Khương Trầm Ngư xòe đôi bàn tay, thoải mái cười nói: “Yên tâm, ta không cướp của phu nhân đâu, chỉ để chàng ngủ một giấc yên lành thôi. Khi Tiểu Hồng ngủ, phu nhân có thể ngồi cạnh nhìn chàng, tiếp tục hát cho chàng nghe, được Hy Hòa nửa tin nửa ngờ đưa chiếc hòm cho nàng, đưa đến giữa chừng lại hối hận rụt tay lại, ôm chặt chiếc hòm vào lòng, lắc đầu nguầy nguậy.
Khương Trầm Ngư không nản lòng, tiếp tục mỉm cười tiến sát lại gần hơn: “Thế này đi… ta dùng thứ khác để đổi cho phu nhân nhé?”.
Hy Hòa vừa ôm chặt chiếc hòm, vừa hoang mang chớp chớp mắt nhìn nàng mấy cái. Cho dù vẫn bị người ngoài đàm tiếu là yêu cơ, nhưng kỳ thực đường nét của nàng ta không đẹp kiểu yêu mị, khoảnh khắc này không còn vẻ sắc sảo huyênh hoang, ngông cuồng khinh bạc thường ngày nữa, mà chỉ còn lại vẻ ngây thơ, yếu đuối và rụt rè vốn có ở người thiếu nữ.
Khương Trầm Ngư nhìn Hy Hòa, trong lòng thấp thoáng mấy chữ: Ai nhìn cũng thấy thương…
Nàng buồn bã cụp mi, cố gắng nén nỗi đau đớn chua xót không tên trong lòng lại, nhìn về phía Hy Hòa, nở một nụ cười: “Ta dùng thứ này đổi với phu nhân, phu nhân đưa Tiểu hồng cho ta, để họ đưa chàng đi ngủ, được không?”. Vừa nói vừa ra hiệu cho Hoài Cẩn ở phía sau đem đồ tới.
Hoài Cẩn đặt tay nải trên vai xuống, nhẹ nhàng mở ra, bên trong là một chiếc áo bào trắng được gấp vô cùng ngay ngắn.
Trong tích tắc đôi mắt Hy Hòa sáng rực.
Khương Trầm Ngư đón lấy chiếc áo bào trắng từ tay Hoài Cẩn, chậm rãi bước đến trước mặt Hy Hòa, không nói thêm gì nữa chỉ bình tĩnh đưa chiếc áo bào trắng ra, sau đó nhìn thiên hạ đệ nhất mỹ nhân trong chớp mắt nét mặt trở nên rúm ró, bởi bao tình cảm chất chứa trong tâm khảm tích tụ lâu ngày đã lên tới đỉnh điểm, giờ đây ầm ầm sụp đổ.
“Cạch” một tiếng, chiếc hòm gỗ rơi xuống đất, Hy Hòa run rẩy túm chặt lấy chiếc áo bào trắng. Đám thị vệ nhanh như chớp lao qua nhặt lấy chiếc hòm, mang tới trước mặt Chiêu Doãn Chiêu Doãn liếc nhìn chiếc thủ cấp trong hòm một cái, ánh mắt đau đớn, vội quay mặt qua chỗ khác, trầm giọng nói: “Đem đi xử lý cẩn thận, chuẩn bị hậu táng”.
“vâng!”. Hai tên thị vệ vội vàng hộ tống chiếc hòm rời đi. Còn bên kia, Hy Hòa đang vùi mặt trong chiếc áo bào trắng, tham lam hít hà mùi hương trên chiếc áo, toàn thân co rúm lại, khóc thút thít.
Thấy nàng ta thất thố như thế, Chiêu Doãn vừa uất hận lại vừa thương xót, bất giác đi đến nói: “Đừng làm ồn nữa, mau đứng dậy cho trẫm…”. Y vừa chạm vào vai Hy Hòa liền bị nàng ta cắn mạnh vào tay, rồi nàng ta vừa lăn vừa bò trên mặt đất để trốn tránh.
“Nàng!”.
Thấy Chiêu Doãn sắp nổi giận, Khương Trầm Ngư vội dịu dàng gọi một tiếng: “Hoàng thượng…”.
Chiêu Doãn hết nhìn nàng lại nhìn Hy Hòa trên mặt đất, ánh mắt lóe sáng, sau đó lại tối sầm, thở đài nói: “Thôi… mấy người đến đây, đỡ phu nhân về cung, không được để nàng ấy ngồi dưới đất”.
Đám cung nhân ai nấy mặt mày khó coi. Bộ dạng Hy Hòa như thế, rành rành là từ chối bất cứ người nào lại gần, đến hoàng đế nàng ta còn cắn, huống hố chỉ là bọn nô tài tép riu. Hơn nữa, hoàng thượng vẫn không nỡ làm tổn thương vị sủng phi này, bọn họ nhẹ chân nhẹ tay không được, nặng tay cũng không xong, biết phải làm sao đây?
Trong lúc đám đông âu sầu khổ não, không biết làm thế nào thì Khương Trầm Ngư bước lên nói: “Để ta thử xem”.
Mọi người thầm thở phào nhẹ nhõm, thiện cảm đối với vị Thục phi này cũng vì thế mà tăng thêm mấy phần.
Khương Trầm Ngư bước đến trước mặt Hy Hòa, lặng lẽ chăm chú nhìn nàng ta một lúc, thấy cả người Hy Hòa đều đang run rẩy rõ ràng là thực sự đau thương đến tột độ, trong lòng không khỏi thương xót, bi thương xen chút ngưỡng mộ, cuối cùng ngưng kết thành sự dịu dàng: “Phu nhân… không vá áo giúp Tiểu Hồng ư?”.
Hy Hòa chấn động một lúc, ngây ngô ngẩng đầu lên. Khương Trầm Ngư chỉ chỉ vào chiếc áo bào trắng: “áo bị rách rồi kìa”.
Lúc này dường như Hy Hòa mới phát hiện trên áo còn một lỗ thủng, ngây dại mở chiếc áo ra, nhìn lỗ hổng lớn bị gió lùa vào kêu phù phù, trong phút chốc nước mắt sa xuống, không nói câu gì, loạng choạng đứng đậy cầm chiếc áo rồi quay về điện.
Nàng ta vừa vào điện, mọi người cũng lần lượt thở phào bước vào theo.
Khi Khương Trầm Ngư bước vào trong điện, thì đã thấy Hy Hòa cầm kim chỉ bắt đầu vá chiếc áo bào trắng, thần tình chăm chú mà bình tĩnh, ánh tà dương len qua cửa sổ đang mở ở bốn bức tường chiếu vào trong, chiếu lên người nàng ta, mái tóc đen nhánh cùng chiếc áo bào trắng tựa tuyết tôn lẫn nhau, hai sắc màu đối lập rõ ràng như thế, tạo thành một bức tranh cực kỳ trang nhã, in đậm trong tâm trí mỗi người.
Chiêu Doãn bỗng quay người, bước đi không nói một lời.
Khương Trầm Ngư im lặng bước theo.
Những thị vệ, thái giám khác cũng lần lượt theo sau, nhưng vẫn rất dè chừng giữ một khoảng cách nhỏ với hai người bọn họ.
Đi được một lúc, Khương Trầm Ngư phát hiện Chiêu Doãn không có ý định về ngự thư phòng mà đang đi loanh quanh không mục đích trong hoàng cung, hơn nữa càng đi lại càng đến nơi hẻo lánh, nhà cửa thưa thớt, cỏ cây um tùm, một nơi nàng chưa từng đến bao giờ.
Tiếp theo Khương Trầm Ngư phát hiện, đây vốn là điểm tận cùng của hồ Phượng Thê.
Hồ Phượng Thê là danh thắng nổi tiếng nhất của hoàng cung Bích quốc, mà cầu Động Đạt chính là tâm điểm của bức tranh ấy. Tiết Thái đã từng vung roi ngựa làm kinh động xe ngựa của Hy Hòa phu nhân, hại nàng ta rơi xuống nước ở chỗ đó. Vì thế, từ trước tới nay, Khương Trầm Ngư cứ tưởng cầu Động Đạt là toàn bộ của hồ Phượng Thê, bây giờ nhìn thấy nơi đây mới hay, hóa ra điểm cuối của hồ lại tiêu điều như thế này.
Tuy là mùa hè nhưng cỏ cây vẫn thưa thớt, mọc lên lởm chởm nửa xanh nửa vàng, mấy gian nhà ngói xiêu vẹo ngả nghiêng đã mục nát đến quá nửa, cho thấy đã rất lâu rồi chưa có ai đến đây. Thỉnh thoảng vẳng tới tiếng “quạ quạ” của con quạ bay vụt qua trên nhưng cành khô khiến cảnh sắc càng thê lương hoang tàn.
Khương Trầm Ngư hơi đăm chiêu nhìn Chiêu Doãn – Y cố tình hay vô ý đến chỗ này? Nếu nàng đoán không nhầm, nơi này… chính là chỗ ở của Chiêu Doãn lúc còn nhỏ.
Năm Gia Bình thứ mười một, Hành Xu đi qua đây, nghe thấy tiếng hát đẹp như tiếng nhạc trời của một người phụ nữ, nhất thời hứng khởi sủng hạnh người cung nữ làm trong phòng giặt là đó, sau đó thì quên ban danh phận cho nàng ta, chẳng ngờ người cung nữ ấy lại âm thầm mang thai rồng, mười tháng sau sinh hạ ra một hoàng tử.
Nhưng nàng ta địa vị thấp kém, lại bị Hành Xu quên lãng, vì thế trong suốt một thời gian dài không ai hỏi đến.
Mười năm sau, người cung nữ mắc bệnh qua đời, có người thông báo việc này lên cấp trên, La Hoành vô tình nhìn thấy bẩm lại với Hành Xu, lúc ấy họ mới biết đến sự tồn tại của vị hoàng tử này. Bấy giờ mới sai người đón Chiêu Doãn về cung. Nhưng vì từ nhỏ thiếu ăn thiếu mặc nên Chiêu Doãn chậm lớn, lại không biết chữ, so với các hoàng tử khác đúng là một trời một vực.
Chẳng ai ngờ đứa trẻ gầy gò thô lậu đó sau này lại trở thành đế vương của một nước.
Cũng chẳng ai ngờ vị đế vương oai hùng này lại có xuất thân như thế… Còn thời khắc này Chiêu Doãn đang chăm chú nhìn nước hồ nửa đỏ nửa xanh dưới ánh tà dương, không vui không buồn, ánh mắt nặng nề, thần sắc bình tĩnh.
Gió mát nhè nhẹ thổi trên mặt hồ, mặt hồ gợn lên tầng tầng những con sóng lăn tăn, y đứng chắp tay sau lưng, ánh mặt trời phủ lên gò má y một lớp ánh sáng vàng, nhìn lại càng không rõ nét.
Giấc mộng đế vương ngàn thu.
Từ cổ chí kim, biết bao người muốn làm hoàng đế. Nhưng có phải khi làm hoàng đế là thấy thỏa mãn, là thấy không còn hối hếc không?
Chiêu Doãn, vị đế vương mới chỉ hai mươi tuổi này, năm mười ba tuổi đã cưới Tiết Mính, con gái của trưởng công chúa tiền triều, nhân đấy nhận được sự ủng hộ của Tiết gia từ hoàng tử không được chú ý nhất lắc mình một cái đã trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh nhất cho ngôi vị hoàng đế. Nhưng khi đó thế lực của Tiết gia vẫn chưa đủ đối đầu với Vương thị, vì thế năm mười bốn tuổi, y lại quỳ trước cửa phủ Cơ gia, xin cưới Cơ Hốt làm phi, Cơ lão hầu gia mới ưng thuận hôn sự này. Từ đây, Cơ gia cũng trở thành thế lực hậu thuẫn mạnh mẽ cho y. Năm Gia Bình thứ hai mươi bảy, Bích vương Hành Xu lâm bệnh nguy kịch, vốn muốn truyền ngôi cho thái tử Thuyên, nhưng sau khi bàn mưu Chiêu Doãn, cùng Tiết Hoài, Cơ Anh đã phát động binh biến vào đêm mùng mười tháng mười, giết chết Chiêu Thuyên, ép Hành Xu lập Chiêu Doãn làm hoàng đế – đó chính là biến sự Song Thập. Năm sau Chiêu Doãn đăng cơ, đổi quốc hiệu Đồ Bích, tuyển trưởng nữ của Khương thị làm phi. Từ đây, dưới sự phò tá của ba đại thế gia Khương, Cơ, Tiết, y đã ngồi vững trên ngai vàng.
Đồ Bích năm thứ tư, y lại ép Tiết Hoài mưu phản, nhổ gốc trốc rễ cả gia tộc họ Tiết.
Có thể nói, cả đời của vị đế vương này mỗi bước đi đều dứt khoát quả quyết. Y biết rất rõ mình muốn gì và không hề do dự khi thực thi.
Tiết gia như thế, Cơ gia… cũng như thế.
Tuy cái chết của Cơ Anh là phụ thân bày mưu tính kế, nhưng nếu như không có Chiêu Doãn cho phép, phụ thân đâu dám đi nước cờ mạo hiểm này. Giờ đây Chiêu Doãn lại có vẻ mặt tuy bình tĩnh nhưng bi thương không nói nên lời này, là vì cái gì?
Là thương tiếc cho cái chết đau đớn của Cơ Anh? Hay là xót thương cho sự điên dại của Hy Hòa?
Nếu nói y muốn trừ bỏ Tiết gia là vì Tiết Hoài công cao át chủ, đã uy hiếp đến hoàng quyền của y. Thì Cơ gia lại không như vậy chí ít, tính đến bây giờ vẫn không. Tại sao y lại cho phép phụ thân thực hiện hành động điên cuồng lần này? Tại sao y muốn Cơ Anh chết?
Lẽ nào vì… thật sự là vì… Hy Hòa?
Màu mắt Khương Trầm Ngư sầm xuống, hai tay từ từ nắm chặt lại, một giọng nói từ đáy lòng đang xé toang làn sương mù đày đặc lạnh lẽo và kiên quyết vang lên: Không tin!
Nàng, Khương Trầm Ngư không tin, một nam nhân thủ đoạn độc ác trở mặt vô tình như thế lại có thể vì nữ sắc mà đánh mất lý trí như vậy, vì một người con gái mà hy sinh danh thần giỏi nhất của mình.
Hôn quân vì nữ sắc như thế có lẽ sẽ là Ngô vương Phù Sai, là Trụ vương Tử Tân, là U vương Cung Niết, nhưng tuyệt đối không thể là y – Bích vương Chiêu Doãn!
Nghĩ miên man đến đây, ánh mắt Khương Trầm Ngư từ nóng chuyển sang lạnh, nàng hơi cúi đầu nhìn xuống đất, ánh đương kéo dài chiếc bóng rồi từ từ tối đi.
Màn đêm đã buông xuống rồi.
Nhưng Chiêu Doãn vẫn bất động, không có ý rời khỏi đây.
Một đám người đợi chờ, tất cả đều đứng cách cả trượng nín thở đợi chờ đợi không dám giục giã.
Khương Trầm Ngư nghĩ một lát mới lên tiếng nói: “Hoàng thượng, đêm lạnh rồi, về đi thôi”.
Thân hình Chiêu Doãn hơi rung rung giống như bị giọng nói này thức tỉnh, y quay đầu lại, vẻ mặt kinh ngạc, nhưng chẳng qua cũng chỉ là biểu cảm trong nháy mắt mà thôi, rồi y lấy lại bình tĩnh ngay lập tức.
“Ừ”.Y gật đầu, quay người đi trước.
Đèn hoa mới khêu, bóng sáng mông lung. Rõ ràng cùng trong cung cấm, nhưng đoạn đường mà họ đã đi này cực kỠthê lương lạnh lẽo so với sự ấm áp, sự huyên náo ở các điện khác lại giống như hai thế giới đối lập nhau, tất cả những thứ đẹp đẽ đều không thể lọt tới đây.
Từ vị trí của Khương Trầm Ngư có thể nhìn thấy bóng lưng của Chiêu Doãn, chiếc áo mỏng khó che nổi sự gầy gò của y, ngẫm kỹ bỗng phát hiện ra một sự thực: Hình như Chiêu Doãn là người gầy nhất trong những nam tử mà nàng từng gặp… Trong lúc nàng thất thần, Chiêu Doãn bỗng cất tiếng hỏi: “Nàng về từ khi nào?”.
Khương Trầm Ngư sững ra, vội đáp: “Vừa mới vào cổng cung đã được dẫn đến Bảo Hoa cung bái kiến bệ hạ rồi”.
Chiêu Doãn “ồ” một tiếng, ngưng một lát mới từ tốn nói: “Lần này xuất cung… cảm thấy thế nào?”.
Trong đáy mắt Khương Trầm Ngư dấy lên vô vàn cảm xúc rất lâu sau mới trả lời: “Thế giới rộng lớn, mà cung điện, đô thành, giang sơn của một nước…không thể sánh nổi”.
Chiêu Doãn sững người, kinh ngạc quay đầu lại nhìn nàng, trong ánh mắt đầy sự dò xét: “Nghĩa là thế nào?”.
Khương Trầm Ngư thận trọng lựa chọn từ ngữ: “Từ khi thần thiếp hiểu chuyện được phu tử dạy dỗ, được cha mẹ chỉ bảo, chịu ảnh hưởng của những người xung quanh đến nay, thần thiếp luôn tưởng một khuê nữ biết nữ công gia chánh, giỏi nấu nướng, biết thơ văn, hiểu lễ nghĩa mới là một khuê nữ tốt. Vào hoàng cung thần thiếp lại thấy những thứ như nữ công gia chánh, nấu nướng, thơ văn thậm chí những lễ tiết đã được học trước đây, đều là đồ bỏ đi cả. Bởi, chúng không thể khiến thần thiếp có được sự sùng ái của hoàng thượng, cũng không thể giúp thần thiếp trở thành một vương phi xuất sắc. Bởi vậy trong một thời gian dài, thần thiếp luôn tự vấn: Mình nên học những gì? Mình nên làm những gì? Mình tồn tại có ý nghĩa gì?”.
Chiêu Doãn cười cười: “Nàng nghĩ thật là nhiều”. Đây là biểu cảm vui vẻ đầu tiên mà y bộc lộ trong ngày hôm nay, vì thế tuy lời nói mang ý khiển trách nhưng giọng điệu lại có chút chế nhạo mà thân mật.
Khương Trầm Ngư cũng cười theo, nói tiếp: “Nhưng lần xuất cung này, được đến những nơi chưa từng đến, được gặp đủ mọi loại người, có người sống rất vui vẻ thoải mái, có người không được như vậy, có người rất tích cực, có người tiêu cực… Tất cả giống như những mũi kim thêu, từng mũi từng mũi thêu dần dần tạo thành hình ảnh, tạo thành đáp án mà thần thiếp luôn kiếm tìm”.
“Ồ, đáp án là gì?”. Chiêu Doãn tỏ rõ hứng thú, ánh mắt sáng rỡ nhìn nàng.
Khương Trầm Ngư không vòng vo, đáp rất thẳng thắn: “Làm lợi cho người”.
Lông mày của Chiêu Doãn nhướng lên.
“Cái gọi là làm lợi cho người, tức là có lợi đối với người khác Nói dễ hiểu hơn chính là sự tồn tại của bản thân có ích với người khác”.
“Nói tiếp đi”.
“Hoàng thượng, theo người tại sao con hổ luôn sống đơn độc?”.
Chiêu Doãn ngẫm nghĩ: “Hừm… vì nó mạnh mẽ?”.
“Vậy tại sao loài người mạnh hơn loài hổ lại quần cư?”.
Chiêu Doãn chưa trả lời, Khương Trầm Ngư đã lập tức đưa ra lời giải thích: “Bởi, loài người vì muốn bảo vệ cho nhau, yêu thương lẫn nhau nên đã ở cùng một chỗ, mới có thể sáng tạo ra chủng tộc đời đời tiếp nối, vạn cổ văn minh”.
Chiêu Doãn ngẩn người nhìn nàng, không biết là vì chấn động hay là vì tán thành.
“Những năm cuối triều Tần tổng cộng có hơn 2000 vạn người, nhưng đến đầu thời Hán chỉ còn lại hai, ba nghìn hộ, thậm chí xuất hiện cảnh ‘thiên tử không có xe bốn ngựa để đi, thừa tướng ngồi xe trâu, đân chúng không có cái ăn cái mặc’. Thời Tam Quốc, chiến sự liên miên, sau trận Xích Bích chỉ còn 90 vạn người. Thời Đường Vũ Tông, đất nước có 496 vạn hộ, nhưng đến thời Chu Thế Tông chỉ còn 120 vạn hộ… Có thể nói như thế này, mỗi lần chiến tranh sẽ khiến dân số giảm đột ngột lại dẫn đến nền kinh tế, văn minh của thời kỳ đó trở nên trống rỗng. Khi nhân loại không còn tương trợ lẫn nhau, khi nhân loại bắt đầu tàn sát lẫn nhau, xã hội không những ngừng tiến lên phía trước, mà thậm chí còn tụt lùi. Vì thế, là một phần từ trong dòng chảy lịch sử mênh mang, cho dù có nhỏ nhoi biết mấy, thần thiếp nên có ích cho người khác, có ích với đời – Đây chính là đáp án mà thần thiếp kiếm tìm”.
Chiêu Doãn trầm ngâm rất lâu, sau đó hít một hơi thật sâu nói nhỏ: “Nàng… trưởng thành rồi. Trầm Ngư”.
Nữ tử trước mắt đã không còn là cô thiếu nữ tóc búi lệch, tự mình dâng thư tiến cử trước mặt y thuở nào nữa, mà nói năng đĩnh đạc, toàn thân tỏa ra hào quang trí tuệ khiến người ta không đám coi thường. Khương Trầm Ngư khi đó có lẽ chỉ là to gan mà thôi, còn Khương Trầm Ngư của bây giờ lại có trí tuệ ở tầng cao hơn nghiễm nhiên sánh ngang với Cơ Anh.
Nhớ đến Cơ Anh, lòng Chiêu Doãn lại nhói đau, y bỗng buột miệng: “Cơ Anh… hắn đi có nhanh không?”.
Khương Trầm Ngư nhìn y chằm chằm, bất động một lúc.
Chiêu Doãn bị ánh mắt của nàng chiếu thẳng, bỗng cảm thấy gai người, vô thức nói: “Sao thế?”.
Rèm mi của Khương Trầm Ngư run run một lát, rồi bằng một giọng điệu trấn tĩnh lạ thường mà lại có chút lạnh lùng, nàng nói: “Mặt của Kỳ Úc hầu, chẳng phải hoàng thượng đã nhìn thấy rồi sao?”.
Chiêu Doãn kinh ngạc, câu thứ hai của Khương Trầm Ngư nối tiếp ngay sau đó: “Còn như vì sao ngài ấy phải ra đi, hoàng thượng và thần thiếp đều biết rõ nhất… phải không?”.
Câu nói này hiển nhiên đã đâm trúng nỗi đau của Chiêu Doãn, cơn giận bùng lên trong đôi mắt của vị đế vương trẻ tuổi khi y đang định khiển trách phi tử vô lễ thì lại kinh ngạc khi nhìn thấy hai hàng nước mắt trong suốt không một tiếng động, không chút sức sống trào ra khỏi đôi mắt, lăn dài trên gương mặt nàng. Rõ ràng Khương Trầm Ngư đang khóc, nhưng không phải đau thương, mà giống như thương xót.
Mà sự thương xót này lại bất ngờ làm tan biến cơn giận của Chiêu Doãn, khiến y cũng thấy thương xót.
Bởi y không thể khóc vì Cơ Anh, cho nên nhìn thấy Khương Trầm Ngư khóc, giống như nỗi bi thương của mình cũng được giải tỏa theo nước mắt của nàng; mà cũng vì y và nàng thực ra xuất phát từ hoàn cảnhiống nhau, nên càng có thể cảm nhận được giây phút này nàng có thể khóc trước mặt người khác là điều khó khăn xiết bao.
Ánh mắt Chiêu Doãn lóe sáng, từ từ đưa tay ra… Khương Trầm Ngư run run nắm lấy.
Tay hai người nhẹ nhàng nắm lấy nhau như thế.
Tay của Chiêu Doãn lạnh lẽo, không giống như tay của Cơ Anh – lúc nào cũng ấm áp, khiến người ta cảm nhận được một sức mạnh vững chãi và hiền hòa. Thế nhưng, đây lại là cánh tay cao quý nhất, quyền lực nhất thiên hạ Bích quốc ngày nay.
Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn ngón tay của mình và y đan vào nhau, ánh mắt sâu thăm thẳm, trào dâng những cảm xúc khó hiểu, khoảnh khắc sau, nàng ngẩng đầu, mỉm cười rạng rỡ với Chiêu Doãn.
Thế là Chiêu Doãn cũng cười, nắm tay nàng tiếp tục đi về phía trước.
Khương Trầm Ngư khẽ nói “Hoàng thượng…”.
“Hả?”.
“Sư Tẩu chết rồi”.
“Ừ”. Đến lông mi cũng chẳng buồn động đậy, về tình hình của hai ám vệ, Chiêu Doãn đương nhiên đã biết từ lâu: Nghe nói tên xui xẻo vì bảo vệ Khương Trầm Ngư mà mất một cánh tay hai cái chân, sau khi hấp hối trên giường một tháng trời, cuối cùng đã chết trên đường về đế đô.
“Nàng còn cần ám vệ à? Vậy cấp cho nàng hai tên nữa”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu nói: “Hoàng thượng còn có thể cho thần thiếp xuất cung nữa không?”.
Chiêu Doãn hỏi vặn lại: “Nàng muốn xuất cung sao?”.
Khương Trầm Ngư không hề do dự trả lời: “Muốn”. Chiêu Doãn nhìn nàng, lại cười, giọng điệu có chút yêu chiều nói: “Cũng không chịu an phận nhỉ”. Dừng một lát, lại tiếp: “Có điều đúng là không nên nhốt nàng. Hoàng cung này… thực sự quá nhỏ”.
Khương Trầm Ngư lờ mờ nhận ra gì đó trong lời nói của y, không kìm được hỏi: “Hoàng thượng cũng muốn ra ngoài?”.
Trong tích tắc ánh mắt Chiêu Doãn hơi sầm lại: “Không. Trẫm không đi”.
Tuy sắc mặt y không vui, nhưng có thể cảm thấy y tức giận không phải vì nàng đã hỏi điều không nên hỏi, mà dường như là vì câu hỏi không thể trả lời đó khiến y bực bội với chính mình.
Chiêu Doãn… hình như… chưa bao giờ ra khỏi hoàng cung thì phải?
Khi y dung túng cho nàng ra ngoài va chạm với mọi thứ, có phải là y đang gửi gắm vào nàng một phần khát vọng mà mình không thể thực hiện được hay không?
Nghĩ đến điểm này, trong lòng Khương Trầm Ngư giây phút ấy không biết có cảm giác gì.
“Ngày mai, hãy cùng trẫm thiết triều sáng đi”. Chiêu Doãn bỗng nói.
Khương Trầm Ngư sững người, lập tức đáp: “Thưa vâng”.
Cái gọi là “cùng” của Chiêu Doãn không phải cùng y xuất hiện, là quân sư cho hoàng đế, khi đế vương lên triều, nàng phải đứng trong phòng tối ở bên cạnh lắng nghe. Mà Hàn lâm bát trí đã chết cả trước đó, bây giờ chính là lúc chọn người mới. Chiêu Doãn nói như thế, rõ ràng ám chỉ nàng sẽ là một trong số đó.
Đây… có được coi là được công nhận không?
Khóe môi Khương Trầm Ngư nhếch lên một nụ cười chua chát vốn là một chuyện đáng vui mừng, nhưng vì nguyên nhân dẫn đến việc nàng bước lên con đường làm mưu sĩ này đã tiêu vong, nên niềm vui ấy đã biến thành nỗi đau thương vô cùng.
Nhớ ban đầu, nghìn lần cứng cỏi, vạn phần chấp niệm, đều là vì người ấy.
Mà nay “muốn phép Ma Cô thay thương hải, một chén sương xuân lạnh giá này”(1) … nàng chợt nhớ đến một chuyện, liền vội buông tay Chiêu Doãn. Chiêu Doãn sửng sốt quay đầu lại thấy nàng rút một cuốn sổ nhỏ từ trong người ra, cung kính dâng lên: “Không thể hoàn thành nhiệm vụ hoàng thượng giao phó, xin hoàng thượng trách tội”. Nói đoạn, quỳ sụp xuống đất.
Khương Trầm Ngư khấu bái rồi quay người đi vào cổng cung. Vừa bước vào cổng liền chạm phải một đôi mắt, trái tim trong chốc lát bỗng run lên.
Bởi chủ nhân của cặp mắt đó đứng trong bóng tối, khuất sáng, nên ánh mắt âm u lạnh lẽo, giống như mắt loài sói vậy.
Khương Trầm Ngư sững ra một lát mới phản ứng lại: “Tỉ tỉ?”.
Người đó chậm rãi bước ra, ánh đèn phía trước hành lang chiếu xuyên qua bóng cây loang lổ, rớt xuống khuôn mặt trắng bệch không chút huyết sắc, chiếu rõ ánh mắt của nàng ta đang tỏa ra oán hận – quả nhiên là Họa Nguyệt.
“Tỉ tỉ?”. Khương Trầm Ngư nắm lấy tay nàng ta theo bản năng, nhưng bị nàng ta gạt phắt ra. Khương Họa Nguyệt chẳng thèm nói gì, chỉ lạnh lùng trừng mắt nhìn nàng… rồi rảo bước rời đi.
Bấy giờ, Ác Du mới từ trong nhà chạy ra, sắc mặt lo lắng, thấp giọng nói khẽ: “Đại tiểu thư đến đã chừng nửa tuần nhang rồi, đang định đi thì nhìn thấy…”.
Khương Trầm Ngư tuyệt vọng nhắm mắt lại.
Tỉ tỉ nhất định là nghe nói mình hồi cung lại nghĩ tới tin đồn “Thục phi nhiễm bệnh, đưa đến Bích Thủy sơn trang tĩnh dưỡng” trước đây, lo lắng nàng chưa hồi phục, nên vội vàng muốn đến hỏi thăm. Chẳng ngờ lại bắt gặp chính hoàng thượng đích thân đưa nàng về cung, còn nắm tay trò chuyện cười nói suốt dọc đường… Cho nên, vốn từ lo lắng đã trở thành căm hận đố kỬ mới lườm nàng bằng ánh mắt tràn ngập hận thù như thế.
Nhất thời, trái tim nàng nặng trĩu, ngàn cảm xúc khó nói thành lời, Ác Du lại nói thêm một câu càng khiến nàng khó mà bình tĩnh nổi: “Còn nữa tiểu thư… lão gia cũng đến rồi, đang đợi tiểu thư ở trong phòng”.
Khương Tlẫm Ngư quay đầu nhìn bóng người cao gầy đang đứng phía trong cột cửa chạm khắc rồng phượng thoáng thấy văn nhược giản dị, giống như một thư sinh trung niên bình thường, nhưng trên thế gian này, không có ai hiểu rõ người đó hơn nàng…
Người này mới là Dạ đế thực sự của Bích quốc.
Hữu tướng đương triều – Khương Trọng.
Phụ thân… của nàng. Về mùa thu kêu ra rả.
Ô cửa sổ bằng lụa màu xanh biếc đóng im ỉm, bên trong nhà buông rèm thật thấp, ánh nến trong chiếc đèn hình rồng cuộn bằng sứ trắng cháy sáng chiếu rõ đồng tử của Khương Trầm Ngư giống như một ngọn lửa sáng rực.
Nàng nhẹ nhàng nhấc chiếc chụp đèn, khêu nhẹ bấc đèn bằng cái khêu vàng cán đài, rồi lại đậy chụp đèn bằng thủy tinh lại mặt nàng hơi cúi xuống, mang theo một chút lười biếng hờ hững, không để tâm.
Trong phòng im ắng đến khó tả.
Cho đến khi Hoài Cẩn bưng trà vào, mùi thanh mát của loại danh trà cực phẩm theo làn gió nhẹ bay tới cùng giọng nói ngọt ngào của Hoài Cẩn phá vỡ bầu không khí gượng gạo: “Lão gia, đây là trà cúc Đại Khê mang từ Trình quốc về, mời lão gia thưởng thức”.
Khương Trọng cười nói: “Được”. Nói đoạn nhấp một ngụm, thong thả bảo: “Mùi vị này thật khiến người ta nhớ mãi… Nhớ lần trước ta đến Trình quốc uống loại trà này, đã là chuyện của hơn mười năm trước rồi…”.
Khương Trầm Ngư nhếch môi nói: “Phụ thân đại nhân muốn uống trà của Trình quốc, cũng chỉ cần nói một câu thôi. Lẽ nào vị cựu thành chủ Hồi thành thông quyền đạt biến, khi về kinh bái kiến ân sư, đến món lễ vật cũng không có hay sao?”.
Khương Trọng bị nàng mỉa mai nhưng cũng không tức giận, chỉ cười nhạt: “Hắn có đem lễ vật đến hay không, chẳng phải con rõ nhất hay sao? Thiên hạ ngày nay, chẳng có thứ gì khiến ta thích thú hơn món lễ vật đó”.
Bàn tay đang giữ chiếc khêu của Khương Trầm Ngư bỗng dừng giữa không trung, lòng bàn tay như đang bị đốt giữa đống lửa, cảm giác bỏng rát đến mức chiếc khêu cũng bị nung chảy.
Lễ vật mà phụ thân nói chính là Cơ Anh.
Rõ ràng đến thời khắc đàm phán quan trọng, bất cứ sự khiếp nhược nào cũng biến thành lý do thất bại, thế nhưng, Cơ Anh vẫn là điểm yếu của nàng. Mà Khương Trọng hiển nhiên biết rõ điểm này, cho nên, mới không hề sợ hãi, tự tin có thừa.
Con người này… lại là phụ thân của nàng.
Con người này… tại sao lại là phụ thân của nàng?
Vết thương trong sâu thẳm cõi lòng, một lần nữa lại vỡ òa, máu chảy ào ạt, còn Khương Trầm Ngư phải đè nén nỗi đau xé gan xé phổi xuống chằm chằm nhìn Khương Trọng, nhẹ nhàng nói: “Vậy phụ thân có biết, món lễ vật mà phụ thân thích nhất ấy đã có thể giết chết con gái của ngưới – là con hay không?” Khương Trọng nheo mắt lại, trầm giọng nói: Con trưởng thành rồi, Trầm Ngư.
Cho nên, con biết, con có thể chết, nhưng, con sẽ không chết”.
Khương Trầm Ngư không khêu được bật cười, cười được nửa chừng lại biến thành phẫn nộ, cuối cùng đặt chiếc khêu xuống mặt bàn “cạch” một tiếng, quay người đứng phắt dậy hét lên: “Bởi vì con không thể chết, cho nên phụ thân đại nhân có thể thoải mải làm tổn thương con, hủy hoại con, giày vò con phải không?”.
Khương Trọng không do dự vung tay tát thẳng vào mặt nàng.
Hoài Cẩn đứng bên cạnh chứng kiến cảnh tượng này, sợ đến mức chiếc khay trong tay rớt xuống đất.
Khương Trọng cũng không buồn quay lại mà dặn dò: “Hoài Cẩn ra ngoài cánh cửa, không cho phép bất cứ người nào vào”.
Hoài Cẩn nhìn ông ta, rồi lại nhìn Khương Trầm Ngư ngã nhoài trên mặt đất vì ăn một cái tát đó, do dự mấy hồi rồi vẫn lui ra.
Cửa phòng đóng chặt hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài. Ban đêm nóng bức, ánh nến nhảy nhót. Ánh mắt Khương Trầm Ngư vô hồn nhìn mặt đất lạnh như băng giá, má phải đau rát nhắc nhở nàng đây là cái tát đầu tiên trong cuộc đời nàng, hơn nữa, người đánh nàng không phải ai khác mà chính là phụ thân của nàng.
Khương Trọng bước đến trước mặt nàng, từ trên cao nhìn xuống, ra lệnh: “Ngẩng đầu lên”.
Khương Trầm Ngư chầm chậm ngẩng đầu lên, bởi nhìn ngửa, cho nên gương mặt phụ thân lại càng uy nghiêm khôn xiết. Mà sự uy nghiêm này suốt mười lăm năm qua, nàng chưa từng thấy. Hay nói cách khác, ông chưa bao giờ bộc lộ với nàng.
Có phải khi đối mặt với thuộc hạ ông cũng như thế này không?
Những cỗ máy giết người tmh cảm thì tê liệt mà thân thủ siêu phàm đó, đều được con người này huấn luyện ra chăng?
Nực cười biết bao, mỉa mai biết bao, suốt mười lăm năm, đến tận ngày hôm nay, nàng mới nhìn ra bộ dạng thực sự của ông…
“Trầm Ngư, đây là lần thứ mấy cha đánh con?”.
Khương Trầm Ngư thành thực trả lời: “Lần đầu tiên”.
“Thế con có biết tại sao cha phải đánh con không?”.
Khương Trầm Ngư cắn chặt môi: “Bởi vì… con không nghe lời”.
Khương Trọng lắc đầu: “Sai rồi, cha đánh con là vì con không nhìn rõ bản thân mình!”. Khương Trầm Ngư rúng động trong lòng.
“Con nhìn nơi này xem, Trầm Ngư, nhìn xung quanh xem”. Khương Trọng đang rộng hai cánh tay, xoay nửa vòng: “Nhìn bàn trang điểm trạm ngọc lưu ly này, nhìn chiếc gối ngọc thêu phượng này, cây đàn Hiệu Chung này… Đây là hoàng cung! Trầm Ngư, đây là hoàng cung, không phải là khuê phòng của thiên kim Tiểu thư Khương gia nhà con! Còn con, sở dĩ có thể ở nơi này, là vì con là phi tử của hoàng đế, đây là sự thực không thể thay đổi được! Con tưởng mình còn có thể tiếp tục nối mối tiền duyên với Cơ Anh sao? Nói cho con hay, đừng mơ, kể từ phút bước chân của con giẫm lên đất của hoàng cung là Con đã không thể dây dưa với Cơ Anh và bất cứ nam nhân nào nữa! Nhưng rõ ràng con đã quên mất điều này, chuyến đi Trình quốc con đã gây cho ta biết bao nhiêu thị phi? Cơ Anh thôi cũng được, Hách Dịch là thế nào? Di Phi là thế nào? Con tưởng những chuyện này ta có thể biết còn hoàng thượng thì không thể biết sao? Con tưởng là bây giờ hoàng thượng và con vui vẻ hài hòa là trong lòng hoàng thượng không để ý chút nào sao? Rốt cuộc là cái gì làm mờ mắt con? Con gái của ta Trầm Ngư mà cha luôn tự hào nhất”.
Mắt Khương Trầm Ngư lập tức đỏ lên, nàng nói rành rọt: “Con gái tự vấn, tấm lòng ngay thẳng, không hổ với trời đất!”.
“Thế còn Cơ Anh thì sao?”. Đồng tử của Khương Trọng co lại: “Con dám nói đối với hắn, con cũng không thẹn với lòng không?”.
Khương Trầm Ngư sững ra, sau đó, đột nhiên bắt đầu cười lạnh vừa cười vừa lảo đảo đứng dậy: “Con đối với Cơ Anh… tại sao phải hổ thẹn? Tại sao? Con vốn rất thích chàng. Từ hai năm trước con đã thích chàng rồi. Không, từ khi con hiểu được chữ ‘Tình’ là thế nào thì trong mắt con đã chỉ có chàng…”.
“Con không biết xấu hổ!”.
“Cho dù thân phận của con không xứng với chàng như thế nào, cho dù con và chàng vì gia tộc và hoàng thượng mà không thể kết hôn, cho dù thân con là nữ nhân của hoàng thượng không thể hai lòng… Nhưng, con vẫn khẳng định, con không hổ thẹn! Bởi vì, Cơ Anh không giống các người!”.
“Con”. Khương Trọng tức đến nỗi mặt đỏ phừng phừng.
Trái lại Khương Trầm Ngư càng lúc càng trấn tĩnh: “Nhìn lại mình đi, phụ thân, cha nhìn lại cha xem. Cha ở trong triều ba mươi năm, thân là phụ mẫu của muôn dân, là rường cột của quốc gia, cha đã làm được những gì? Hãy nhìn lại chính tích của cha xem: Lũ lụt Khuê Hà, Tiết Hoài đích thân dẫn tướng sĩ đến phát chẩn cho dân gặp nạn, ba tháng ròng rã cùng ăn ở với dân chúng trong lều cỏ; Cơ Anh phụ trách hậu cần Còn cha? Cha đang làm gì? Cha đang bận huấn luyện đám tử sĩ của mình. Ôn địch ở Hoài Bắc lan rộng, là Cơ Anh đi trị; thư sinh kết bè kết đảng làm loạn, là Cơ Anh đi khuyên ngăn; núi tuyết ở Đồng Hương sạt lở, là Cơ Anh đi cứu… Khi quốc gia lâm nguy, khi dân chúng không biết nương tựa vào đâu cha đang làm gì? Cha vẫn đang huấn luyện đám tử sĩ của cha. Không sai. Cha đã bồi dưỡng ra tử sĩ xuắt sắc nhất thiên hạ, nhưng những tử sĩ đó từ đâu ra? Họ vốn dĩ là những đứa trẻ được cha mẹ yêu thương, được người thân che chở, nhưng từ nhỏ đã bị đòn roi đánh đập, huấn luyện bằng những phương thức tàn khốc nhất, chết biết bao người mới có thể đào tạo ra một người cuối cùng. Những ám vệ đó chẳng qua chỉ là những cỗ máy giết người biết đi đứng mà thôi. Con biết cha đã làm rất nhiều điều vì Khương gia, cha đã trả giá rất nhiều nhưng thiên hạ đâu chỉ có một gia tộc…”.
Khương Trọng bị những lời nàng nói làm cho nghẹn uất không nói nên lời.
“Phụ thân, con sinh trưởng trong nhà quan, lớn lên trong tướng phủ, từ nhỏ đến lớn luôn nhìn thấy quan lại tham ô, ích kỷ bẻ cong vương pháp, đến kẻ bị thịt như ca ca, vì là con trai của hữu tướng còn có thể nắm đại quyền trong triều… Vậy khi gặp được một người như chàng, sao con lại không thể thích được chứ? Làm thế nào để có thể không thích chàng cho được? Thích những thứ tốt đẹp có gì là sai? Yêu một nam tử phẩm đức xuất chúng có gì là sai?”. Khương Trầm Ngư nói đến đây bờ môi run rẩy, trong nháy mắt chuyển thành đau đớn thê lương: “Nhưng… phụ thân, cha giết chàng. Cha dùng thủ đoạn hạ lưu, bỉ ối, giết chết Cơ Anh”.
Khương Trọng im lặng một lúc lâu, rồi mới lên tiếng: “Ta không thể không giết hắn”.
“Không thể không… hay cho một câu không thể không”.
Khương Trầm Ngư cười lạnh: “Năm đó, cha không thể không vứt bỏ Đỗ Quyên, vì tỉ ấy bị mù, sau đó, cha không thể không giết cha mẹ nuôi của Đỗ Quyên, vì sợ lộ bí mật, lại tiếp cha không thể không cho Họa Nguyệt uống thuốc, để tỉ ấy cả đời không thể mang thai, bởi tỉ ấy không phải là con gái ruột của cha; lại sau đó của sau đó, cha không thể không đẩy con vào trong cung, bởi vì cha cần một hoàng hậu… mỗi một bước đi của phụ thân đều là ‘không thể không’…”.
“Trầm Ngư”. Khương Trọng bỗng nghiêm giọng gọi tên nàng: “Con hận ta, ta có thể hiểu được; con không chịu tha thứ cho ta, cũng không sao. Cả cuộc đời của ta có lẽ không lập công lao hiển hách gì cho quốc gia, nhưng đối với cả gia tộc, ta không hổ thẹn với các vị liệt tổ liệt tông”.
Khương Trầm Ngư ngoảnh đầu sang chỗ khác, chăm chú nhìn vào ánh nến trên bàn, lạnh nhạt nói: “Đúng, đây chỉnh là sự khác biệt giữa cha và con. Cha là vì thanh danh của Khương Thị là vì sự vinh quang của dòng dõi. Còn con…”. Nàng quay đầu lại, nhìn thẳng vào phụ thân của mình, nói rọt từng chữ: “So với chữ ‘Nhà’ con coi trọng chữ ‘Người’ hơn. Đỗ Quyên, Họa Nguyệt, biết bao nhiêu người vốn dĩ có thể Có Cuộc đời hạnh phúc; nhưng một tay phụ thân đã hủy hoại bọn họ. Con là con của cha, con họ Khương, cái họ này con không thể tự thay đổi, nhưng con cũng là Trầm Ngư, là Trầm Ngư mà nói, con là một con người, cho nên, thứ con yêu cầu là công bằng. Làm người, sống giữa trời đất pháp lý, cái nên có chính là công bằng”.
Khương Trọng bị rúng động trước sự kiên nghị và quyết tâm toát ra từ ánh mắt của nàng, trong phút chốc, đứa con gái ông tận mắt nhìn thấy nó lớn lên bỗng trở nên thật xa lạ. Nó rõ ràng đứng ở đó cách ông chưa đầy ba bước, mà lại giống như đứng ở một độ cao mà cả đời ông cũng không thể chạm tới, cúi nhìn ông bằng lánh mắt cực kỳ lạnh lẽo.
Kỳ thực, nói cho cùng, Khương Trầm Ngư không hiểu ông còn ông đã bao giờ hiểu Khương Trầm Ngư chưa?
Tay Khương Trọng không kìm được run lên bần bật.
Còn Khương Trầm Ngư đã quay người lại, chậm rãi nói: “Đêm khuya rồi, phụ thân ở đây lâu không hay, mời quay về đi”.
Khương Trọng không nén được gọi: “Trầm Ngư…”.
“Còn nữa”. Khương Trầm Ngư nói bằng một giọng điệu càng bình tĩnh hơn, càng lạnh nhạt hơn: “Về sau, xin phụ thân gọi ta một tiếng ‘nương nương’”.
Khương Trọng sững người, ngẩn ra nhìn nàng hồi lâu, cuối cùng quay lưng, im lặng mở cửa bước ra.
Cửa còn chưa đóng, Hoài Cẩn sợ sệt thò đầu vào, thấy Khương Trầm Ngư ngồi quay lưng lại không nhúc nhích, lo lắng đến bên cạnh gọi: “Tiểu thư…”.
Không thấy nàng trả lời, Hoài Cẩn bèn vòng lên phía trước lay vai nàng: “Tiểu…”, mới gọi được một tiếng, tiếng thư” phía sau mắc nghẹn trong cổ họng, không thể phát ra được Bởi vì, cái nàng ta nhìn thấy là Khương Trầm Ngư mở trừng trừng hai mắt, hai hàng chất lỏng đang lăn dài trên gò má trắng mịn như tuyết khiến người ta kinh tâm động phách.
Đó không phải là lệ.
Mà là…
Máu, Đêm đó, ngoài Thục phi khóc ra máu trong cung còn phát sinh một chuyện lớn khác. Đó chính là Hy Hòa phu nhân nhìn tưởng như đã bình tĩnh trở lại, nhưng hôm sau khi cung nữ đẩy cửa cung ra chuẩn bị chải tóc thay áo cho nàng ta bỗng phát hiện: Nàng ta thức trắng cả đêm!
Những tia nắng ban mai đầu tiên nhẹ nhàng phủ lên thân hình của Hy Hòa, nàng ta ngồi trên đất, trong tay ôm chiếc áo bào trắng của Cơ Anh, suối tóc buông xõa.
Tóc và áo bào cùng màu.
“…Đúng là tự tạo nghiệt, sao chỉ trong một đêm mà tóc bạc trắng hết…”. Vừa sáng sớm đã nghe thấy ác Du vừa chải tóc cho Khương Trầm Ngư vừa cằn nhằn nói: “Hơn nữa còn nghe nói ả chẳng nhận ra ai hết, các cung nữ nhìn thấy bộ dạng đó của ả liền vội vàng gọi thái y đến khám cho ả, nhưng chỉ cần có người lại gần, ả liền giận dữ la hét, thấy ai là cắn người đó. Nghe nói trong một buổi sảng đã cắn bị thương ba người rồi”.
Khương Trầm Ngư hơi cau mày, nói: “Thế thái y đến khám chưa?”.
“Đến rồi ạ, nhưng cũng không có cách nào lại gần được, trong ba người bị cắn có cả Giang thái y Giang Hoài”
Khương Trầm Ngư nghĩ một lát, nói: “Sai người đi mời Đông Bích hầu”.
“Ơ vâng”.
“Khi nào hầu gia đến, thì đưa ngài đến Bảo Hoa cung tìm ta”. Khương Trầm Ngư nói xong liền khoác áo đứng dậy.
Ác Du trợn trừng mắt, hỏi: “Bây giờ Tiểu thư cũng đến chỗ Hy Hòa phu nhân sao?”.
Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn bầu trời âm u sầm sì bên ngoài cửa sổ, thong thả nói một câu: “Nếu ta đoán không nhầm, hoàng thượng hôm nay sẽ không thiết triều sáng”.
Quả nhiên nàng đoán không sai.
Buổi chầu sớm đã bị hủy sau khi Chiêu Doãn hay chuyện của Hy Hòa. Còn khi Khương Trầm Ngư đến Bảo Hoa cung, Chiêu Doãn đang giận dữ mắng cung nữ: “Các ngươi coi sóc phu nhân kiểu gì hả? Nàng bạc hết tóc mà các ngươi đến sáng mới biết?”.
Hơn mười cung nữ líu ríu quỳ rạp xuống đất, kẻ đứng đầu nghẹn ngào nói: “Xưa nay phu nhân không cho chúng nô tì ở lại qua đêm. Đêm qua chúng nô tì sau khi thấy phu nhân không có chuyện gì nữa, bèn lui cả đi… Nào ngờ, phu nhân phu nhân lại…”.
“Các ngươi là một lũ vô dụng!”. Chiêu Doãn đưa chân đá người cung nữ đó ngã lăn, hằm hằm đi đến trước Hy Hòa đang co rúm bên cạnh bàn trang điểm, tóm chặt cánh tay nàng ta, muốn kéo nàng ta ra, kết quả cũng vấp phải sự phản kháng của nàng ta như những người khác.
Hy Hòa há to miệng cắn thật mạnh vào tay y.
Chiêu Doãn cũng không rụt lại, nhất quyết lôi nàng ta ra, hét lên: “Cắn đi!
Cứ việc cắn đi Trẫm muốn xem xem nàng có thể cắn đến mức nào, điên đến mức nào!”. Vừa nói vừa cưỡng ép lôi nàng ta đến trước gương, một tay tóm chặt tóc nàng, ép nàng ta nhìn vào gương: “Nàng nhìn xem, nàng nhìn kỹ cho trẫm xem! Nàng tưởng điên là được à? Nàng tưởng bạc trắng tóc là được à? Nói cho nàng biết, Diệp Hy Hòa, không dễ đâu! Nàng điên cũng vẫn là người của trẫm, nàng xấu cũng vẫn là phu nhân của trẫm. Cuộc đời này của nàng, còn khuya mới kết thúc!”.
Y đẩy thật mạnh Hy Hòa ngã dúi dụi xuống đất, nàng ta nước mắt nước mũi nhòe nhoẹt, kêu gào khóc lóc ầm ĩ.
Giang Hoài bên cạnh nhìn thấy mà tim đập chân run, vội vàng tiến lên kiểm tra tay của Chiêu Doãn, chỉ thấy hai dấu răng in sâu ở cổ tay, đã bắt đầu rỉ máu.
Vết cắn này quả thật không nhẹ chút nào.
Xin hoàng thượng cho phép thần băng bó”. Giang Hoài vừa quỳ xuống vừa vội vàng lấy băng gạc và thuốc mỡ từ trong hòm thuốc ra để băng bó cho Chiêu Doãn.
Chiêu Doãn lại đẩy ông ta ra, đến trước mặt Hy Hòa lần nữa. Lần này Hy Hòa đã khôn ngoan hơn, không đợi y đến gần đã trốn ra phía sau, vừa trốn vừa đá, không cho y lại gần. Khương Trầm Ngư thu hết thảy vào trong tầm mắt, trong lòng không kìm được tiếng thở dài: Thật khó coi quá… Chiêu Doãn và Hy Hòa như thế này, đều khó coi…
Bấy giờ thái giám bên ngoài điện cao giọng hô to: “Đông Bích hầu đến…”.
Phút sau, Giang Vãn Y vội vàng xuất hiện trước cửa, nhìn thấy cảnh tượng này, hắn cũng ngẩn ra một lát, nhưng lập tức tiến lên nói: “Hoàng thượng đừng như thế, hoàng thượng…”.
“Buông ta ra”. Chiêu Doãn hất tay hắn ra, tiếp tục tóm chân Hy Hòa, còn Hy Hòa vừa đạp vừa khóc, tiếng kêu gào thảm thiết.khiến người ta chói tai nhức óc.
Giang Vãn Y khuỵu chân, quỳ xuống đất, gấp gáp nói: “Hoàng thượng, xin cho vi thần thời gian ba ngày, để phu nhân bình thường trở lại!”.
Chiêu Doãn lập tức ngừng lại, liếc mắt nhìn Giang Vãn Y, Giang Vãn Y ra sức dập đầu, mồ hôi trên trán túa ra như tắm.
Chiêu Doãn lạnh lùng “hừ” một tiếng, thu tay lại đứng lên nói: “Được, trẫm cho ngươi ba ngày. Ba ngày sau, nếu Hy Hòa phu nhân không thể hồi phục, ngươi biết sẽ có hậu quả gì rồi đấy”.
Giang Vãn Y vái lạy một cái.
Chiêu Doãn lại nhìn Hy Hòa, đối diện với sự giải vây của Giang Vãn Y và sự đe dọa của y, Hy Hòa vẫn không hề có chút cảm giác nào, chỉ co rúm không ngừng khóc trong xó tường, nước mắt nước mũi tèm lem hết gương mặt, bộ dạng không biết khó coi đến chừng nào.
Sắc mặt y càng lúc càng thâm trầm, không nói một lời đã quay người bước đi, khi ngang qua Khương Trầm Ngư, mặt không biểu cảm nói: Đi theo trẫm”.
Tuy Khương Trầm Ngư rất muốn ở lại để xem Giang Vãn Y chữa trị cho Hy Hòa như thế nào, nhưng nghe Chiêu Doãn nói như vậy cũng đành đi theo y.
Sắc trời bên ngoài càng lúc càng âm u, mây giăng tầng tầng lớp lớp, xem ra khó tránh khỏi sẽ có một trận mưa rào. Gió cũng rất to, thổi tung tay áo và tóc bay hất ra phía sau. Khương Trầm Ngư không kìm được đưa tay lên giữ chặt lấy tóc đồng thời lúc đó Chiêu Doãn đưa chân lên đá bay một bồn hoa mẫu đơn vốn được đặt ngay ngắn bên đường, không hề cản lối đi.
“Choang” một tiếng, bồn hoa vỡ tan.
Đám thị vệ và thái giám nhìn thấy hoàng thượng tâm trạng không vui, vội vàng tránh ra thật xa.
Khương Trầm Ngư nhìn bồn hoa xui xẻo đó, khe khẽ thở dài, không ngờ chạm phải ánh mắt hằm hằm của Chiêu Doãn, bèn tiến lên phía trước tìm một chiếc bồn rỗng, đặt cây mẫu đơn ngả nghiêng vào trong chiếc bồn mới, cẩn thận vùi đất.
Việc này mất một thời gian chừng nửa tuần trà, trong thời gian đó, Chiêu Doãn lạnh lùng đứng bên nhìn, không nói một lời.
Cho đến khi KhươngTrầm Ngư làm xong, đang định đứng dậy thì y tiến lên mấy bước, lại giơ chân, đá vỡ bồn hoa đó.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, Chiêu Doãn nheo mắt nhìn nàng, ánh mắt thách thức, dường như đang nói: “Xem nàng làm thế nào?”.
Trái lại Khương Trầm Ngư không nói gì, lại lần nữa lặng lẽ lấy một chiếc bồn không chuyển cây mẫu đơn vào, làm xong, ngẩng đầu nói khẽ: Hoàng thượng, còn đá không?”.
Ánh mắt Chiêu Doãn lóe sáng, y đột nhiên quay người bỏ đi.
Khương Trầm Ngư lập tức phủi sạch bùn đất trên tay, đứng dậy theo sau.
Chiêu Doãn đi rất nhanh, không lâu sau đã đến thư phòng, La Hoành rảo bước lên trước mở cửa, y tiến vào trong, dặn dò: “Cho Khương Trầm Ngư vào trong, người khác đều đợi ở ngoài cửa”.
“Dạ”. La Hoành dè dặt đóng cửa lại.
Trong thư phòng chỉ còn lại hai người bọn họ. Bên ngoài gió thổi vù vù khiến giấy dán cửa sở kêu phật phật, trong phòng càng lúc càng trở nên lạnh lẽo. Vì không thắp đèn, ánh sáng lờ mờ, nên Khương Trầm Ngư chỉ thấy gương mặt nghiêng của Chiêu Doãn, trong ánh sáng yếu ớt nhìn lại càng u uất hơn.
“Vì sao nàng không sợ trẫm…?”. Trong tĩnh lặng, cuối cùng Chiêu Doãn đã lên tiếng.
Khương Trầm Ngư nghĩ một lát, hỏi ngược lại: “ý hoàng thượng chỉ bốn hoa mẫu đơn ban nãy à?”.
Chiêu Doãn “hừ” một tiếng, coi đó là câu hả lời khẳng định “Có lẽ là vì… so với cơn thịnh nộ lúc hoàng thượng đá vỡ nó, thiếp còn nhìn thấy sự thương xót thoáng qua trong đáy mắt của hoàng thượng khi nó rơi xuống”.
Chiêu Doãn hơi kinh ngạc quay người lại, nhìn thẳng vào nàng.
“Loài hoa hoàng thượng thích nhất là mẫu đơn, mấy bồn hoa đó đều là thợ làm vườn dốc sức chăm bón, ngày đêm chăm sóc mới có được, trong lòng hoàng thượng đương nhiên cũng biết rằng chúng rất quý giá. Cho nên hoàng thượng đá chúng nhưng lòng lại đau… Mà hoàng thượng đã đau lòng, thần thiếp đi cứu thì cũng là chuyện nên làm, cho nên, có gì đáng sợ đâu?”. Nói đến đây, Khương Trầm Ngư mỉm cười, đổi sang giọng điệu khác, thong thả nói tiếp: “Có điều, bồn hoa đá vỡ rồi, có thể trồng lại, nhưng nếu người bị hủy hoại, e rằng khó cứu… Xin hoàng thượng cân nhắc”.
Gương mặt Chiêu Doãn khi nghe nửa đoạn đầu vốn dĩ đã giãn ra một chút, nhưng khi nghe đến câu cuối cùng, lập tức nặng nề trở lại: “Nàng đang giáo huấn trẫm?”.
Thần thiếp không đám”. Khương Trầm Ngư nhẹ nhàng nhấc gấu váy, yểu điệu quỳ xuống, khi ngẩng đầu mắt đã loang loáng nước như sắp khóc: “Hoàng thượng có biết trong chuyến đi Trình quốc, ngoài thế giới rộng lớn, thần thiếp còn cảm nhận được gì không?”.
“Cảm nhận gì?”.
Khóe môi Khương Trầm Ngư hiện lên một nụ cười khổ, thêm ba phần buồn bã, bốn phần thê lương, năm phần thương cảm, kết đọng thành mười hai phần dịu đàng: “Đó chính là sinh mệnh nhỏ nhoi”.
Trong mắt Chiêu Doãn có một thứ tình cảm nào đó lướt qua, rồi lại chìm lắng.
“Ngươi tưởng rằng người đó không gì là không thể làm được lớn mạnh vô cùng, nhưng chỉ nháy măt thôi đã chết đi trong lạnh lẽo; ngươi tưởng rằng thái bình thịnh thế, thiên luân yên lành, phút sau đã là đao quang kiếm ảnh, chiến sự liên miên… phút này còn cầm trong tay, phút sau đã vỡ nát, ngày hôm qua còn mỉm cười với ngươi, ngày hôm nay đã thành một cái xác khô. Có câu cổ ngữ mà chúng ta ai cũng biết, nhưng trước khi chính bản thân mình trải qua, lại chẳng bao giờ biết coi trọng, đó chính là trân quý lấy người trước mắt mình”.
Trong bóng sáng mờ tối, giọng nói trong trẻo mềm dịu không nhiễm bụi trần của nàng cùng tình cảm hàm súc, sâu đậm mà ý tứ xa xôi trong đó khiến người ta không khỏi động lòng, không khỏi cảm thấy đồng cảm một cách sâu sắc. Vì thế, sau một lúc lâu trầm ngâm im lặng, Chiêu Doãn cũng không nói gì, chỉ giơ tay ra trước mặt Khương Trầm Ngư.
Khương Trầm Ngư cung kính cầm lấy.
Y kéo nàng đứng dậy. Đợi Khương Trầm Ngư đứng vững xong, Chiêu Doãn buông tay xoay người đi đến bên cửa sổ, đẩy cửa sổ ra, không khí ẩm ướt lùa vào, sấm bên ngoài giật đùng đùng, những hạt mưa to như hạt đậu rơi xuống mặt đất bong bóng mưa thi nhau nổi lên.
“Trầm Ngư…”. Chiêu Doãn chăm chú nhìn tầng mây đen kịt ở phía xa, thấp giọng nói nhỏ: “Nghe nói nàng và phụ thân nàng… đoạn tuyệt rồi”.
Mặt Khương Trầm Ngư nhanh chóng biến sắc.
Quả nhiên… trong hoàng cung, không chuyện gì là có thể giấu được tai mắt của hoàng đế sao?
Chiêu Doãn quay đầu nhìn nàng, ánh mắt sáng long lanh có thần, sáng đến kỳ 1ạ: “Khương Trọng một lòng muốn đưa nàng lên ngôi hoàng hậu, nhưng không ngờ chuyện không như ý, ngược lại còn kích thích lòng phản nghịch của nàng”.
Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, gương mặt trắng bệch, một lúc sau mới mở miệng: “Cuộc đời của thiếp… là của chính thiếp”.
Ầm ầm… “Hay!”. Chiêu Doãn vỗ tay cười to: “Hay cho câu ‘cuộc đời của thiếp là của chính thiếp’. Khương Trầm Ngư, trẫm quyết định rồi. Trẫm sẽ vì nàng làm một việc, đó là ban thưởng cho nàng. Mà thứ trẫm ban thưởng cho nàng chính là…”.
Một tia sét rạch vỡ bầu trời.
Khương Trầm Ngư sững sờ nhìn Chiêu Doãn trước cửa sổ, phía sau lưng y là mưa to dữ dội, ống tay áo có thêu hình rồng vàng năm móng bay phần phật mặt của y hơi rõ nét lại hơi mơ hồ… y… nói gì nhỉ?
Chiêu Doãn, y… vừa nói gì…?
Ngày mùng chín tháng chín, Đồ Bích năm thứ tư, trên điện Đường, hoàng đế quyết ý chọn Thục phi Khương thị làm hậu, quần thần khen phải.
“Đồ Bích. Hoàng hậu truyện”
Kể từ khi hoàng hậu cũ là Tiết Minh bị phế, trong suốt một thời gian dài, các triều thần rất lo lắng, sợ Chiêu Doãn sẽ phong Hy Hòa làm hậu. Mà trên thực tế, một loạt hành động của Chiêu Doãn sau đó cũng rất giống với nỗi sợ của đám quần thần: Trước tiên là để Giang Hoài và Hy Hòa nhận họ hàng, sau phong Giang Vãn Y tước hầu; lại phái Giang Vãn Y đi sứ Trình quốc lập công… Thấy lần này Giang Vãn Y thuận lợi quay về, gia quan tấn tước chỉ là chuyện nay mai, thế mà trong giờ phút quan trọng này, Hy Hòa lại phát điên!
Đương nhiên tin đồn về việc tại sao Hy Hòa phu nhân phát điên thì mỗi người một phách, càng nói càng không ra sao nhưng tâm ý của hoàng thượng đối với nàng ta như thế nào thì ai cũng biết. Chính vào lúc này, hoàng thượng thiết triều sớm, đột nhiên nói muốn phong hậu, hơn nữa còn không phải Hy Hòa, mà là người trước đó không ai nghĩ tới – KhươngTrầm Ngư.
Toàn bộ sự kiện này liền trở nên kỳ quặc.
Đám triều thần một nửa mang thái độ quan sát để bo bo giữ mình, một nửa đều là tư đảng của Khương Trọng đương nhiên là cực lực tán thành.
Cũng vì thế, chuyện phong hậu đã thuận buồm xuôi gió không bị cản trở.
Đối lập rõ rệt với tình hình khí thế đang lên của Khương gia là Giang thị khó khăn lắm mới ngóc đầu lên được, tuy rất nhiều người có lòng tin đối với y thuật của Giang Vãn Y, nhưng lần này, hắn lại khiến tất cả mọi người thất vọng Hy Hòa phu nhân không những không khỏi mà còn điên loạn hơn nữa. Mới đầu chỉ là cắn người, bây giờ, đến ánh sáng cũng không dám nhìn. Chỉ có một chút ánh sáng chiếu lên người nàng ta là nàng ta điên rồ kêu thét lên, toàn thân run rẩy, các cung nữ đành phải đóng hết cửa sổ dùng vải đen che kín mít. Như thế vẫn chưa hết, cuối cùng tình trạng còn tiến triền đến mức chỉ nghe thấy tiếng bước chân người là nàng ta bị kích thích, cho nên, đành phải cắt bớt những cung nhân hầu hạ ở đó, chỉ còn lại vài người canh cửa.
Vẫn chưa hết đâu!”. Khi chải đầu cho KhươngTrầm Ngư, Ác Du bẩm lại những tin tức mà mình lượm lặt được ở bên ngoài: “Bây giờ cả ngày ả chỉ ôm áo bào của Kỳ Úc hầu chui trong xó tường hát, mặt cũng không buồn rửa, cơm cũng không buồn ăn, đói thì vớ được thứ gì ăn thứ nấy, trên người dính đầy phân với nước tiểu”. Nói đến đây, trên mặt ác Du lộ vẻ hả hê: “Trời ạ, mọi người có thể tưởng tượng không? Đó là Hy Hòa phu nhân tứ quốc đệ nhất mỹ nhân đó. Sáng nay ta đến Bảo Hoa cung ngó trộm một cái, còn chưa đi đến cửa điện đã ngửi thấy mùi thối bốc ra từ bên trong…”.
“Thế muội có nhìn thấy người không?”. Hoài Cẩn hỏi.
“Muội bị mùi đó làm cho choáng váng, liền chạy về để nôn rồi, đâu có chạy vào trong để nhìn…”.
Hoài Cẩn khẽ thở dài nói: “Thật đáng thương…”.
Ác Du “hừ” một tiếng, phản đối: “Muội cảm thấy đây là báo ứng của ả, nghe nói ban đầu là ả xúi giục hoàng thượng bắt tiểu thư tiến cung, hại tiểu thư khổ như thế này. Hơn nữa thường ngày ả đắc tội với rất nhiều người, giờ ả phát điên tất cả đều vỗ tay hả hê đó”.
Khương Trầm Ngư cau mày: “Ác Du, không có căn cứ thì về sau không được nói những lời như ‘ta tiến cung là vì Hy Hòa xúi giục hoàng thượng’.
Hoàng thượng là ai mà có thể dùng hai chữ ‘xúi giục’ để nhắc tới?”.
Ác Du bị khiển trách, nhệch miệng nói: “Vâng, biết rồi ạ… nhưng hoàng thượng vẫn rất sủng ái Hy Hòa phu nhân… Tiểu thư nói xem; bộ dạng ả giờ vừa bẩn vừa hôi, đến cung nữ thái giám hầu hạ trong Bảo Hoa cung cũng không dám ở lại, nhưng ngày nào hoàng thượng cũng đến thăm ả, mà ả hễ nhìn thấy hoàng thượng thì lại càng điên hơn, vừa khóc vừa làm ầm lên không cho lại gần nên lần nào hoàng thượng cũng đành phải đứng ở xa nhìn một lát rồi lại đi. Haizz… đều nói đế vương vô tình nhưng hoàng thượng của chúng ta vẫn là một hoàng thượng si tình. Nhưng đáng tiếc, đối tượng lại là Hy Hòa, thật là khiến những phi tử nương nương khác vừa hâm mộ vừa đố kỵ chết đi được”.
Khương Trầm Ngư nghe những lời bàn luận thị phi đó, không tỏ thái độ gì, nhưng trong lòng lại cười lạnh – Những phi tử ngưỡng mộ Hy Hòa đó lại không biết người đáng thương nhất có lẽ chính là Hy Hòa.
Nỗi khổ của Khương Trầm Ngư là vì yêu mà không có được; còn nỗi khổ của Hy Hòa lại là vì yêu mà sinh hận.
Lấy tâm so tâm, Khương Trầm Ngư nàng chưa bao giờ có được công tử, khi mất công tử cũng đã đau buồn đến thế, huống hồ là Hy Hòa đã từng có, đã từng độc quyền sở hữu, thậm chí luôn luôn gắn kết với công tử?
Hy Hòa yêu Cơ Anh bao nhiêu thì cũng hận chàng bấy nhiêu, hận càng sâu tức là yêu càng nhiều. Yêu hận đan xen dồn cả vào người quan trọng nhất trong trời đất vô tận đó, bỗng một ngày người đó chết đi, bảo nàng ta phải chịu đựng cú sốc này như thế nào?
Cho nên, Hy Hòa phu nhân phát điên là điều tất nhiên.
Kỳ thực, điên cũng không có gì là không tốt.
ít nhất điên rồi sẽ không cần nghĩ gì nữa, không cần quan tâm đến thứ gì nữa, chỉ chìm đắm trong thế giới của riêng mình là đủ.
Nói ra, nàng có chút ngưỡng mộ…
Ác Du làm bộ làm tịch thở dài thườn thượt mấy cái, nói tiếp: “Hy Hòa phu nhân cũng coi như bỏ đi, đáng thương thay cho Đông Bích hầu, xui xẻo vì ả ta”.
Bấy giờ Khương Trầm Ngư mới nhớ đến cái hẹn ba ngày, kinh hãi hỏi: “Đúng rồi, sư huynh sao rồi?”.
“Còn có thể sao nữa? Không trị khỏi cho Hy Hòa phu nhân chỉ có thể chịu phạt thôi. Hầu gia cũng rất tự giác, sáng sớm hôm nay đã đến quỳ xin chịu tội ở bên ngoài ngự thư phòng của hoàng đế rồi”.
“Ôi, Thục phi nương nương đến rồi, nô tài bái kiến nương nương…”. La Hoành làm tư thế chuẩn bị khấu bái, Khương Trầm Ngư phản ứng kịp, thuận tay tháo chiếc vòng trên tay nhét vào tay ông ta.
“Ôi chao, sao có thể để nương nương tốn kém thế…”. La Hoành giả bộ nói, nhận lễ xong mới cười híp mắt nói Đông Bích hầu không sao, nương nương yên tâm đi”.
Bấy giờ Khương Trầm Ngư mới trút được hòn đá tảng trong lòng xuống.
La Hoành thuật lại một lượt cả quá trình cho nàng nghe đại thể là Đông Bích hầu tự biết không thể hoàn thành cái hẹn ba ngày, cho nên từ giờ Dần đã quỳ ở đây, còn Chiêu Doãn sau khi biết tin hắn quỳ bên ngoài, không lập tức tỏ thái độ gì, cứ để cho hắn quỳ hai canh giờ. Cho đến giờ Thìn mới hạ chỉ nói hắn không hoàn thành nhiệm vụ, tước bỏ hầu vị, giáng làm thứ dân, chọn ngày xuất cung, suốt đời không được bước vào kinh thành.
Khương Trầm Ngư cả kính, đang định nói gì đó, liền nghe thấy một tiểu thái giám từ bên trong bước ra nói: “Hoàng thượng mời Thục phi nương nương”.
Hóa ra Chiêu Doãn biết nàng đã tới.
Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, bước vào thư phòng còn chưa bước đến glữa phòng, Chiêu Doãn ăn vận đơn giản, gọn ghẽ đã được thái giám hầu hạ khoác áo choàng lên người nói: “Nàng theo trẫm đến Bảo Hoa cung”.
“… Vâng”. Xem ra, hôm nay cũng không lên chầu sớm rồi.
Chiêu Doãn không ngồi kiệu, chỉ bước đi thật nhanh, vì thế Khương Trầm Ngư cũng chỉ có thể cắm cúi đi theo sau giữa đường nhìn thấy Khương Họa Nguyệt từ xa, đang định chào hỏi, Khương Họa Nguyệt đã quay người rẽ sang lối khác.
Khương Trầm Ngư há hốc miệng, rất bối rối.
Chiêu Doãn bên cạnh nhìn thấy nhưng không tỏ thái độ gì chỉ rảo bước nhanh hơn. Trong ba cung, Bảo Hoa cung gần với tẩm cung của hoàng đế nhất, vì thế, đoàn người mau chóng đến phía trước điện.
Cửa điện đóng im ỉm, hai cung nữ đang đứng bên ngoài nói chuyện, nhìn thấy bọn Chiêu Doãn, cả hai kinh ngạc, hoảng hốt quỳ xuống.
Trong đáy mắt Chiêu Doãn nổi một tia giận dữ, lạnh lùng quát: “Mở cửa”.
Một cung nữ sợ sệt thưa: “Hoàng thượng, phu nhân không cho phép thấy ánh sáng…”, lời còn chưa dứt, đã bị một cung nữ khác ngăn lại, ra hiệu nàng ta không cần phí lời, bèn ngoan ngoãn mở cửa.
Cửa mở ra rồi, một mùi khó ngửi xộc vào mũi.
Đó là một mùi hỗn hợp của mùi ẩm ướt, nát rữa, mùi thối và tinh dầu hòa trộn với nhau.
Mùi thơm là của các đồ nội thất trong điện, mùi thối đương nhiên là của Hy Hòa phu nhân.
Trong một góc âm u, ánh sáng mặt trời không chiếu tới, Hy Hòa phu nhân co rúm như một con tôm, tóc tai như rơm rạ, chiếc áo trên người cũng bẩn thỉu đến mức không thể nhìn ra màu sắc ban đầu, cả người nàng ta tỏa ra một mùi chua thối khiến người khác buồn nôn.
Nàng ta nhắm mắt, dường như đang ngủ, vì thế khi cửa cung đột ngột mở ra cũng chỉ hơi hơi co người lại một chút, khiến thân hình càng cuộn chặt hơn.
Mọi người tưởng nhìn thấy bộ đạng này của nàng ta, chắc hẳn hoàng đế sẽ nổi giận giống như mấy lần trước, nhưng lần này bất ngờ thấy sắc mặt Chiêu Doãn lại bình tĩnh, y đứng trước cửa ra vào, im lặng nhìn Hy Hòa cách xa ba trượng, trong đáy mắt trào dâng một thứ tình cảm sâu sắc mà phức tạp. Mà những cảm xúc đó cuối cùng lắng đọng thành sự bi thương, rồi bắt đầu tràn ngập lan rộng.
Khương Trầm Ngư nhìn thấu hết thảy chuỗi biểu cảm tinh tế này của y, trong lòng thầm thở dài một tiếng, sau đó, không đợi Chiêu Doãn căn dặn đã nhẹ nhàng bước từng bước vào trong.
Cung nữ há hốc miệng, dường như muốn ngăn cản, nhưng thấy phản ứng của Chiêu Doãn nên đành từ bỏ.
Còn Chiêu Doãn cũng nhìn Khương Trầm Ngư, trong ánh mắt ấy có sự thăm đò, cũng có cả sự mong chờ.
Khương Trầm Ngư tiến lại gần, khiến cho Hy Hòa đang ngủ say choàng tỉnh giấc mở mắt nhìn nàng cảnh giác, sắc mặt sợ sệt, theo bản năng chuẩn bị kêu thất thanh, Khương Trầm Ngư vội vàng cướp lời, hát trước: “Trăng mọc chừ, nước mênh mang, tựa ngọc chừ, tự dáng chàng…”.
Nàng hát bài hát mà Hy Hòa hát vào cái ngày phát điên đó, còn hiệu quả vẫn rõ ràng như cũ: Hy hòa lập tức ngừng kêu, vẻ mặt vốn hoảng sợ cũng dần dần dịu đi.
Khi Khương Trầm Ngư hát đến câu “Biển xanh rơi lệ mấy ai hay, rả rích tiêu điều mưa chắng ngớt”, trong đôi mắt sưng đỏ đầy những tơ máu của Hy Hòa bỗng dâng lên một làn hơi nước.
Khi nàng hát đến câu “Cầu đến tiên nhân hái thược được, tam sinh xin nối duyên kiếp này”, Hy Hòa bỗng nhệch miệng, dang rộng hai tay lao đến ôm chặt lấy nàng, cùng lúc, một tiếng gọi đường như xuyên qua nơi chông chênh của ngàn năm, cuối cùng liêu xiêu đi đến trước mặt…
“Mẹ ơi…”.
Các cung nữ kinh ngạc sững sờ: Chiêu Doãn kinh ngạc sững sờ.
Đến bản thân Khương Trầm Ngư cũng kinh ngạc sững sờ.
Chú thích: (1) Bài “Yết sơn” của Lý Thương Ẩn, Hoàng Giáp Tôn dịch. Ma Cô là tiên nữ, tự xưng có thể làm cho biển xanh biến thành nương đâu trong thời gian ngắn, vì thế nhà thơ nhận định rằng biển xanh thuộc về Ma Cô, muốn hỏi xin mua cả biển xanh, tức là có thể chiếm trọn thời gian, không còn hận vì thời gian khiến mọi thứ đổi thay nữa, nhưng tiếc thay không thể, biển lớn đã biến thành chén nước sương lạnh giá của mùa xuân.