Cô Ở Ngoại Khoa Đại Bùng Nổ

Chương 950

Trước Sau

break
“Chúng ta có thể sờ phần sau đầu, đó chính là xương chẩm. Tiến lên một chút sẽ là hai khối xương thái dương. Từ xương thái dương tiếp tục đi về phía trước sẽ gặp xương bướm, nằm giữa hàm trên và hộp sọ. Còn cằm chỉ là phần xương hàm dưới, kết nối với xương thái dương thông qua khớp thái dương hàm. Ngươi cứ thử nhìn mà xem, vị trí của cằm gần ngang với lỗ tai, vì thế nếu nói đến xương bướm, nó không thể nằm ở cằm được, mà phải nâng lên gần mũi hơn. Bên trong xương bướm có một cấu trúc quan trọng gọi là xoang bướm, thông với khoang mũi.”  

Nhờ có lời giải thích đi kèm với ví dụ trực quan, những người không thuộc giới y học cuối cùng cũng hiểu ra. Hóa ra, phần lớn mọi người đều hiểu sai về vị trí của nền sọ, khi cho rằng nó kéo dài đến cằm. Nhưng nếu thử sờ ra sau đầu, sẽ thấy vùng đó có độ nghiêng đi lên. Điều này có nghĩa là đại bộ phận của não bộ không thể kéo xuống thấp như vậy, mà thực tế, hai bán cầu đại não không thể chạm đến vị trí đó.  

Não bộ có liên kết với khoang mũi, thực ra cũng không khó lý giải.  

Trước đây, từng có những bệnh nhân bị chấn thương sọ não, khiến dịch não tủy rò rỉ ra ngoài qua mũi. Điều này chứng tỏ não tủy không chảy ra từ bất kỳ bộ phận nào khác mà chỉ thông qua khoang mũi. Bí ẩn nằm ở chỗ nào? Chính là xoang bướm.  

Xoang bướm là một khoang rỗng, nối trực tiếp với khoang mũi. Vì xương bướm nằm ở vị trí bao bọc não bộ bên trong hộp sọ, nên xoang bướm tự nhiên trở thành "cửa sổ" giúp khoang mũi thông với não bộ.  

Ngoài ra, nhờ có cấu trúc xoang bướm này, các bác sĩ có thể tận dụng đường thông tự nhiên đó để tiếp cận não bộ mà không cần phải mở hộp sọ. Giống như một hang động với lối vào sẵn có, chỉ cần đi qua đó là có thể trực tiếp tiếp xúc với não bộ được hộp sọ bảo vệ chặt chẽ.
Xoang bướm có khẩu mở rất nhỏ, bác sĩ không thể dùng tay không để thao tác. Hơn nữa, vị trí của nó nằm sâu bên trong khoang mũi, khiến bác sĩ cũng không thể quan sát trực tiếp bằng mắt thường. Để có thể tiếp cận và phẫu thuật qua lỗ nhỏ này, bác sĩ buộc phải sử dụng những dụng cụ chuyên biệt.  

Nghe qua phương pháp phẫu thuật này, có lẽ nhiều người cảm thấy quen thuộc. Đúng vậy, nó có nguyên lý và cách thực hiện tương tự một số phương pháp phẫu thuật khác trên cơ thể con người, chẳng hạn như nội soi dạ dày hay nội soi đại tràng. Điểm chung của các loại phẫu thuật này là lợi dụng những đường thông tự nhiên của cơ thể để tiếp cận các cơ quan bên trong, mà không cần phải rạch da hay mở rộng vết mổ.  

Nếu nội soi dạ dày sử dụng ống nội soi dạ dày, nội soi đại tràng dùng ống nội soi đại tràng, thì phẫu thuật qua đường mũi sẽ sử dụng dụng cụ gọi là nội soi mũi.  

Từ những điều trên có thể thấy, nội soi mũi có thể được áp dụng không chỉ trong các ca phẫu thuật liên quan đến mũi mà còn có thể sử dụng để tiếp cận não bộ.  

Trong lĩnh vực ngoại khoa thần kinh, nơi xử lý các vấn đề liên quan đến não bộ, phương pháp phẫu thuật qua xoang bướm theo đường mũi được gọi là mũi - bướm nhập lộ.  

Đây là một kỹ thuật xâm lấn tối thiểu, tương tự như các phương pháp xâm lấn tối thiểu khác trong ngoại khoa thần kinh. Bác sĩ sẽ tận dụng một đường thông nhỏ tự nhiên để đi vào bên trong hộp sọ mà không cần phải mở rộng vết mổ.  

Tuy nhiên, phẫu thuật xâm lấn tối thiểu cũng có những giới hạn nhất định. Điều này từng được đề cập trong ca phẫu thuật ký sinh trùng trước đó. Khi dụng cụ phẫu thuật được đưa vào qua một vết rạch nhỏ, theo lý thuyết, phạm vi phẫu thuật sẽ bị giới hạn trong một khu vực hình nón. Nếu bộ phận cần xử lý nằm ngoài phạm vi này, bác sĩ sẽ không thể đưa dụng cụ tới vị trí đó để thao tác.  

Đối với phẫu thuật mũi - bướm nhập lộ, vùng phẫu thuật lý tưởng nhất chính là khu vực trung tâm của xoang bướm, và một lần nữa, nó liên quan đến yên khu – vị trí đã được đề cập ngay từ đầu.  

Phẫu thuật qua đường mũi chủ yếu xoay quanh yên khu và các vùng lân cận như nền yên, bờ yên, hay sườn dốc. Nếu tổn thương xảy ra trong phạm vi này, bác sĩ có thể sử dụng nội soi mũi để quan sát và thực hiện phẫu thuật một cách chính xác nhất.  

Ưu điểm lớn nhất của phương pháp này là không cần mở hộp sọ, không cần khoan, thậm chí không để lại sẹo. Rõ ràng, so với những phương pháp xâm lấn khác, đây là một lựa chọn lý tưởng hơn. Người bệnh chắc chắn sẽ thích một phương pháp phẫu thuật nhẹ nhàng, ít đau đớn như thế này.  

Không chỉ bệnh nhân, mà ngay cả bác sĩ cũng ưa chuộng phương pháp này. Không phải vì tránh được công đoạn khoan sọ phức tạp, mà vì nếu không đi theo đường mũi, bác sĩ buộc phải mở hộp sọ từ đỉnh đầu hoặc hai bên thái dương để thực hiện phẫu thuật. Những đường mổ này không chỉ lớn hơn, mà còn đòi hỏi phải đi qua nhiều mô não quan trọng, chưa kể còn ảnh hưởng đến vùng thị giác.
Trong phẫu thuật ngoại khoa thần kinh, điều quan trọng nhất là tránh làm tổn thương các mô não và mạch máu thần kinh bình thường trong quá trình phẫu thuật. Nếu có thể đi đường vòng mà vẫn đạt được mục tiêu, thì đó chính là phương pháp tốt nhất. Vì vậy, công nghệ định vị 3D luôn đóng vai trò trọng yếu trong loại phẫu thuật này.  

Nhìn từ góc độ này, cả bác sĩ và bệnh nhân đều mong muốn thực hiện phẫu thuật mũi - bướm nhập lộ, nhưng thực tế có làm được hay không còn phụ thuộc vào tình trạng bệnh và thậm chí cả... vận may của bệnh nhân. Điều quan trọng là xem khối u có mọc đúng vị trí thuận lợi hay không, có nằm trong tầm với của dụng cụ phẫu thuật hay không.  

Trong số các loại u có vị trí thích hợp nhất cho phương pháp này, đứng đầu chính là u tuyến yên, bởi tuyến yên nằm ngay trong vùng yên khu (Sella). Nếu khối u tuyến yên phát triển gọn gàng trong khu vực này, thì mũi - bướm nhập lộ chính là phương pháp phẫu thuật lý tưởng nhất.  

Một loại u khác cũng có vị trí tương đối thuận lợi là u sọ hầu. Đây là một khối u phát sinh từ phần còn sót lại của tuyến yên và vùng họng trong quá trình phát triển phôi thai. Vì có mối liên hệ với tuyến yên, nên nếu nó mọc ở vị trí phù hợp trong khu vực yên khu, bác sĩ hoàn toàn có thể thực hiện phẫu thuật bằng phương pháp mũi - bướm nhập lộ.  

Tuy nhiên, vì phạm vi phẫu thuật theo phương pháp này khá hạn chế, nếu khối u hơi lệch ra khỏi khu vực phẫu thuật một chút thì sao? Có cách nào linh hoạt hơn để giải quyết vấn đề này không?  

Trong phẫu thuật ngoại khoa, có một tình huống khá phổ biến là sau khi tiến vào khu vực cần phẫu thuật, bác sĩ phát hiện phạm vi ban đầu hơi chật hẹp, không đủ để thao tác. Trong những trường hợp như vậy, cách đơn giản và hiệu quả nhất chính là mở rộng phạm vi phẫu thuật.  

Với phương pháp mũi - bướm nhập lộ, nguyên lý cũng tương tự. Để có không gian thao tác tốt hơn, bác sĩ có thể mở rộng xoang bướm, thực hiện phẫu thuật mở rộng xoang bướm, bao gồm việc loại bỏ một phần niêm mạc xương bướm cùng một phần xoang sàng phía sau.  

Khi cuộc trò chuyện giữa bác sĩ và bệnh nhân đang diễn ra, ở phòng bên cạnh, Phương Trạch cuối cùng cũng có thể nghe thấy giọng nói của bác sĩ Đồng. Quốc Hiệp và những người khác cũng lập tức dựng tai lên lắng nghe.  

“Trong lĩnh vực này, bệnh viện chúng ta đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm phẫu thuật, có thể nói là vô cùng thành thạo.” Đồng bác sĩ chậm rãi giải thích, giọng điệu rõ ràng, dễ hiểu.  

“Ta biết ngươi lo lắng sau phẫu thuật, dây thần kinh thị giác có thể bị tổn thương, ảnh hưởng đến thị lực, hoặc động mạch cảnh có thể gặp vấn đề. Vì vậy, trong quá trình phẫu thuật, chúng ta sẽ tiến hành mở rộng phạm vi phẫu thuật, cắt bỏ một phần xương nền yên cùng vùng phía sau yên khu, để đảm bảo không làm ảnh hưởng đến các dây thần kinh và mạch máu quan trọng.  

Ngươi cũng không cần quá lo lắng, sau đó chúng ta sẽ thực hiện tái tạo đáy sọ, tiến hành bổ sung và phục hồi những khu vực bị cắt bỏ.”  

Những lời của bác sĩ Đồng tuy mang tính chuyên môn cao nhưng cách diễn đạt lại vô cùng dễ hiểu, không quá nặng nề với những thuật ngữ y khoa phức tạp, khiến người nghe có thể nhanh chóng nắm bắt được vấn đề.
Người bệnh nghe xong, vẻ mặt đầy hoang mang, thẳng thắn nói:  

“Những bác sĩ trước đây đều bảo ta không thể phẫu thuật này.”  

Đồng bác sĩ lật xem tài liệu trong tay, cẩn thận xác nhận rồi đáp:  

“Theo ta thấy, nếu muốn làm thì vẫn có thể làm được.”  

Lâm Giai Nhân quay sang bác sĩ Tào Dũng, hỏi:  

“Lần trước ngươi bảo ta thế nào? Chẳng phải ngươi nói các bác sĩ nước ngoài đánh giá không sai sao? Chính ngươi cũng đã nói vậy, đúng chứ?”  

Tào Dũng không vội trả lời mà chỉ khuyên bệnh nhân:  

“Ngươi có thể nghe xem bác sĩ Tạ nói thế nào trước đã.”  

Trong căn phòng bên cạnh, một nhóm người đang theo dõi tình hình. Dù là Quốc Hiệp hay Phương Trạch, ai nấy đều nhận ra đêm nay Tào đại lão có vẻ muốn rũ bỏ trách nhiệm, đẩy mọi chuyện cho người khác.  

Các đồng học nghe Tào Dũng nhắc đến việc để Tạ đồng học lên tiếng, cứ tưởng hắn định để Tạ bác sĩ rơi vào thế khó, ai ngờ kết quả lại không phải như vậy. Một số người không khỏi ngạc nhiên.  

Tào Dũng quay đầu nhìn Đồng bác sĩ, ánh mắt như muốn nói: Ta đã bảo ngay từ đầu là ta không có bản lĩnh này, ngươi còn chưa nhận ra sao? Nếu một lần nghe không hiểu thì cứ nghe thêm đi.  

Dù thế nào đi nữa, bệnh nhân dường như tin tưởng bác sĩ Tạ hơn hẳn bác sĩ Tào, liền hướng về nàng, hỏi tiếp:  

“Tạ bác sĩ, ngươi có thể giải thích rõ hơn những gì bọn họ vừa nói không?”  

Tạ Uyển Oánh bình tĩnh đáp:  

“Những gì Đồng bác sĩ nói chủ yếu xoay quanh di chứng thường gặp của phẫu thuật mổ nội soi qua đường mũi. Trong quá trình mổ, bác sĩ ngoại khoa có thể áp dụng một số kỹ thuật để phòng ngừa và xử lý những rủi ro này. Một trong những vấn đề là khu vực phẫu thuật không đủ rộng, khi đó cần thực hiện thủ thuật mở xương. Tuy nhiên, mở xương có thể dẫn đến một di chứng khác là rò dịch não tủy qua mũi. Vì vậy, chúng ta sẽ kết hợp lấy khối u ra, súc rửa và bổ sung phần xương thiếu hụt.”  

Người bệnh nghe xong, hiểu ra vấn đề:  

“Nói như vậy, tình trạng của ta thực chất không liên quan quá nhiều đến cá nhân ta, đúng không?”  

Tạ Uyển Oánh lắc đầu, giải thích:  

“Không thể nói là không liên quan. Vì khối u của ngươi khá lớn, muốn thực hiện phẫu thuật nội soi qua mũi thì bắt buộc phải mở xương.”  

Dù giữa hai bệnh viện đang có sự cạnh tranh về kỹ thuật, cũng không thể vì thế mà phủ nhận những sự thật y học đối phương đưa ra.  

Những người theo dõi như Phương Trạch, Đồng bác sĩ hay các đại lão trong phòng bên cạnh đều bất giác gật đầu.  

Đối thủ này có chuyên môn vững vàng, có lương tâm nghề nghiệp, sẽ không nói bừa.  

Mà nếu muốn chiến thắng, điều quan trọng nhất vẫn là thực lực.  

Người bệnh tiếp tục thắc mắc:  

“Vậy vì sao có bác sĩ nói ta không thể làm phẫu thuật này, còn các ngươi thì lại bảo là có thể?”
Lâm Giai Nhân lên tiếng hỏi.  

Tạ Uyển Oánh mỉm cười với người bệnh, nhẹ giọng đáp:  

“Ta đã nói rồi, ngươi cần phải bày tỏ rõ ràng mong muốn của bản thân đối với cuộc phẫu thuật này.”  

Cảm ơn mọi người đã theo dõi! Chúc cả nhóm ngủ ngon!  

Đồng bác sĩ thẳng lưng, trong lòng bỗng dâng lên linh cảm chẳng lành: Hỏng rồi.  

Hắn lại một lần nữa đoán sai.  

Trong môi trường lâm sàng, đặc biệt là tại các bệnh viện tam giáp trong nước, số lượng bệnh nhân luôn quá tải. Thời gian bác sĩ có thể dành cho mỗi bệnh nhân đều rất hạn chế. Trong điều kiện thiếu thốn thời gian trao đổi, lâu dần, bác sĩ trở thành những “phụ huynh” của bệnh nhân, quen với việc tự quyết định thay họ, danh nghĩa thì là “vì bệnh nhân mà suy nghĩ”.  

Đồng bác sĩ, một nhân vật có tiếng trong giới, lại càng không ngoại lệ. Phần lớn bệnh nhân đến tìm hắn đều cung kính, luôn mang thái độ “bác sĩ bảo sao chính là như vậy”. Một hai trường hợp khác biệt, hắn cũng vô thức bỏ qua.  

Tuy nhiên, quan điểm và thói quen này, giống như những bậc phụ huynh, dù có xuất phát từ ý tốt cũng chưa chắc nhận được hồi đáp tốt.  

Mỗi người có một thân thể riêng, mỗi đứa trẻ có suy nghĩ khác nhau, và mỗi bệnh nhân cũng có nhu cầu khác biệt. Mong muốn của họ có thể nhỏ nhặt hoặc vô cùng lớn lao, chênh lệch đến mức khó tưởng tượng.  

Có những suy nghĩ mà bác sĩ không thể nào lường trước được.  

Ví dụ như trước đây, ở khoa Ngoại Tổng hợp, từng có một dì trung niên rất yêu khiêu vũ. Điều bà quan tâm nhất không phải là kéo dài tuổi thọ, mà là bảo tồn hậu môn, không muốn phải mang túi hậu môn nhân tạo.  

Bác sĩ Đàm, cũng như hầu hết các bác sĩ khác, không hề nghĩ đến chuyện này. Kết quả, khi đưa ra phương án điều trị, ông vấp phải sự phản đối từ chính bệnh nhân.  

Lý do khiến Tạ Uyển Oánh nhạy cảm hơn với những nhu cầu đặc biệt này là vì nàng cũng là nữ nhân.  

Giữa bệnh nhân nam và nữ luôn tồn tại sự khác biệt trong nhu cầu điều trị, phần lớn là do những áp đặt khác nhau của xã hội lên giới tính.  

Xã hội thường khắt khe hơn với ngoại hình của phụ nữ so với nam giới, nhưng lại đòi hỏi đàn ông phải có vóc dáng cao lớn hơn phụ nữ. Điều này dẫn đến sự khác biệt ngay trong nhu cầu y tế: nam giới quan tâm nhiều đến việc tăng chiều cao, còn nữ giới lại chú trọng đến các phẫu thuật thẩm mỹ.

break
Trước Sau

Báo lỗi chương

Ngôn tình sắc Đam mỹ sắc