Cô Ở Ngoại Khoa Đại Bùng Nổ

Chương 916

Trước Sau

break
Do đó, trong các ca phẫu thuật Ngoại thần kinh, thông thường bác sĩ sẽ sử dụng dụng cụ y khoa để thật cẩn thận tìm kiếm dị vật bên trong mô não rồi kẹp hoặc cắt bỏ.  

Từ đây có thể thấy, việc có hay không cắt bỏ một phần lớn xương sọ thực chất không ảnh hưởng nhiều đến quá trình phẫu thuật. Chính vì vậy, phương pháp xâm lấn tối thiểu trở thành lựa chọn tối ưu trong các ca mổ Ngoại thần kinh.  

Vậy, khó khăn lớn nhất của phẫu thuật xâm lấn tối thiểu nằm ở đâu?  

Nếu xét theo kinh nghiệm từ các chuyên khoa khác, trở ngại lớn nhất chính là tầm nhìn bị hạn chế. Trong phẫu thuật xâm lấn tối thiểu ở vùng bụng và ngực, bác sĩ thường sử dụng nội soi ổ bụng – tức là đưa một dụng cụ có gắn camera vào cơ thể để quan sát và tiến hành phẫu thuật.  

Tuy nhiên, để có thể sử dụng nội soi ổ bụng, cần phải tạo đủ không gian cho dụng cụ thao tác, chẳng hạn như trong phẫu thuật lồng ngực, bác sĩ phải thực hiện kỹ thuật xẹp phổi để tạo khoảng trống cần thiết.  

Trong khi đó, não bộ giống như một khối đậu hũ đặc quánh, lấp đầy toàn bộ không gian bên trong hộp sọ, không thể mở rộng để tạo khoảng trống cho nội soi như khoang ngực hay khoang bụng. Chỉ có một khu vực đặc biệt là não thất – nơi có sẵn khoảng không gian tự nhiên – mới có thể tận dụng để đưa máy nội soi vào phẫu thuật.  

Vậy làm thế nào để giải quyết vấn đề tầm nhìn trong phẫu thuật xâm lấn tối thiểu của Ngoại thần kinh?  

Điều này liên quan đến kỹ thuật tính toán hình ảnh 3D của Tạ Uyển Oánh. Trên thực tế, hệ thống hướng dẫn 3D trong Ngoại thần kinh có nguyên lý hoạt động tương tự như phương pháp cô đang nghiên cứu, giúp bác sĩ xác định chính xác vị trí tổn thương và thao tác một cách chính xác mà không cần mở hộp sọ quá lớn.
Trước khi phẫu thuật, bác sĩ sẽ tập hợp toàn bộ hình ảnh chẩn đoán của bệnh nhân, bao gồm phim CT và cộng hưởng từ (MRI), sau đó nhập vào máy tính. Nhờ phần mềm chuyên dụng, hệ thống sẽ dựng mô hình không gian ba chiều của não bộ bệnh nhân.  

Dựa vào hình ảnh 3D này, bác sĩ sẽ đối chiếu với phần đầu thực tế của bệnh nhân để xác định chính xác vị trí tổn thương, đồng thời tính toán đường tiếp cận ngắn nhất và tối ưu nhất để thực hiện phẫu thuật. Sau đó, trên da đầu bệnh nhân, bác sĩ sẽ đánh dấu vị trí rạch phẫu thuật.  

Phương pháp này giúp xác định vị trí mổ một cách chính xác hơn so với phẫu thuật truyền thống, đồng thời có thể điều chỉnh tùy theo vị trí tổn thương cụ thể của từng bệnh nhân. Nghe thì có vẻ như đây là một kỹ thuật tiên tiến và hoàn hảo, thể hiện sự phát triển vượt bậc của y học hiện đại.  

Người nhà bệnh nhân nghe xong liền cảm thấy yên tâm hơn, nhưng chỉ có bác sĩ mới hiểu rõ rằng, để đạt được độ chính xác tuyệt đối trong phẫu thuật là điều vô cùng khó khăn. Mặc dù công nghệ y học hiện nay đã rất phát triển, nhưng vẫn tồn tại những hạn chế chưa thể khắc phục hoàn toàn.  

Nếu hệ thống hướng dẫn không gian ba chiều thực sự có thể đạt độ chính xác tuyệt đối, thì ngay cả những chuyên gia hàng đầu như Tào Dũng cũng sẽ phải trầm trồ ngưỡng mộ năng lực tính toán 3D của tiểu sư muội.  

Trên thực tế, nhược điểm lớn nhất của hệ thống này là nó không thể cung cấp hình ảnh theo thời gian thực. So với các phương pháp can thiệp ngoại khoa có thể tạo ảnh ngay lập tức trong lúc phẫu thuật, công nghệ này vẫn còn khoảng cách rất xa.  

Muốn có hình ảnh theo thời gian thực, phòng mổ cần được trang bị phần cứng vô cùng tiên tiến. Chẳng hạn, khi tòa nhà ngoại khoa mới của Quốc Hiệp được xây dựng, họ đã có kế hoạch thiết lập phòng mổ hiện đại, trang bị cả máy CT trong phòng phẫu thuật, cho phép chụp hình ngay tại chỗ khi cần.  

Tuy nhiên, mỗi lần chụp CT không chỉ tốn kém mà còn mất nhiều thời gian xử lý hình ảnh. Việc liên tục chụp CT để theo dõi trong khi phẫu thuật là điều gần như không thể. Do đó, khi không có đủ điều kiện về trang thiết bị, các bác sĩ chỉ có thể tập trung chuẩn bị thật kỹ trước khi ca mổ diễn ra.  

Thông thường, bác sĩ sẽ dựa vào kinh nghiệm để vạch ra đường tiếp cận ban đầu. Sau đó, bệnh nhân sẽ được dán các điểm đánh dấu lên da đầu và chụp CT thêm một lần nữa.  

Kết quả chụp lần hai sẽ tiếp tục được đưa vào hệ thống hướng dẫn 3D, lúc này hình ảnh 3D sẽ hiển thị rõ các điểm đánh dấu. Bác sĩ sẽ sử dụng những điểm này để điều chỉnh sao cho hình ảnh trên máy trùng khớp với thực tế, từ đó có thể đối chiếu và thao tác chính xác hơn.  

Để đạt độ chuẩn xác cao hơn nữa, trong lúc phẫu thuật, bác sĩ sẽ cố định đầu bệnh nhân vào giá đỡ chuyên dụng. Giá đỡ này có các thước đo giúp xác định chính xác kích thước và hình dạng hộp sọ bệnh nhân. Phương pháp này gọi là định vị có khung 3D, khác với định vị không khung 3D – một phương pháp truyền thống trong phẫu thuật thần kinh để xác định vị trí rạch da đầu.
Khi nhắc đến bệnh nhi, tuyệt đối không thể sử dụng khung định vị đầu. Loại khung này quá nặng, mà hộp sọ trẻ nhỏ lại còn mềm yếu, nếu cố định đầu bằng cách này rất dễ xảy ra vấn đề, nên bác sĩ thường cố gắng tránh dùng.  

Dù đã chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước, nhưng rất tiếc, trong quá trình phẫu thuật, khả năng định vị vẫn có thể gặp trục trặc. Đây là một vấn đề thường xuyên xảy ra trong các ca phẫu thuật thần kinh xâm lấn tối thiểu có sử dụng hệ thống hướng dẫn 3D. Hiện tượng này trong giới học thuật gọi là hình ảnh trôi, theo thống kê, tỷ lệ xuất hiện có thể lên đến hơn 60%.  

Nguyên nhân chủ yếu là do trong não có dịch não tủy lưu động. Chỉ cần đầu bệnh nhân hơi dịch chuyển một chút, dịch não tủy cũng sẽ di chuyển, dẫn đến sự thay đổi vị trí các mô não. Dù phần đầu bệnh nhân đã được cố định trong suốt quá trình phẫu thuật, nhưng bác sĩ vẫn phải thao tác tìm kiếm và điều chỉnh trong một khối mô mềm như đậu hũ. Càng tác động, vị trí và hình dạng của mô não lại càng thay đổi, khiến việc định vị trở nên vô cùng khó khăn.  

Muốn phẫu thuật thần kinh đạt độ chính xác cao theo thời gian thực, cần có công nghệ ghi nhận hình ảnh ngay lập tức và liên tục điều chỉnh mô hình 3D. Nhưng như đã nói ở trên, hiện nay vẫn chưa có phương pháp nào giúp ghi nhận hình ảnh tức thời, nên gần như không thể điều chỉnh hình ảnh 3D trong lúc mổ.  

Cách duy nhất để đột phá giới hạn này chính là trí tuệ nhân tạo—sử dụng máy tính để tính toán và dự đoán sự di chuyển của mô não theo thời gian thực.  

Tuy nhiên, mức độ tính toán cao cấp này ít nhất phải vài thập kỷ nữa mới có thể thực hiện được. Hiện tại, bác sĩ không thể hoàn toàn dựa vào máy tính. Để khắc phục vấn đề này, các bác sĩ thường dùng siêu âm trong lúc phẫu thuật để hỗ trợ định vị theo thời gian thực.  

Nói đi nói lại, cũng không có ai có khả năng tính toán mô phỏng 3D bằng trí óc đáng sợ như Tạ Đồng. Bộ não của nàng có thể dự đoán chính xác những biến đổi phức tạp trong quá trình phẫu thuật, giống như có thần linh dẫn đường. Chính vì vậy, không khó hiểu khi những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực như Tào Dũng và Tống Học Lâm lại đánh giá nàng là nhân tài xuất chúng nhất trong phẫu thuật thần kinh.  

Giải thích quá nhiều, người nhà bệnh nhân cũng chưa chắc đã hiểu hết. Việc quan trọng nhất là họ có đồng ý ký vào giấy cam kết phẫu thuật hay không.  

Nếu muốn tiến hành ca phẫu thuật này, chỉ dựa vào đội ngũ hiện tại là không đủ. Theo quy định của bệnh viện, những ca mổ lớn nhất định phải có bác sĩ từ cấp phó chủ nhiệm trở lên giám sát.  

Tống Học Lâm cầm điện thoại gọi lên cấp trên, không vội báo cho Hoàng tiền bối, mà trước tiên phải thông báo cho đại lão Tào Dũng. Việc có tiến hành ca phẫu thuật khẩn cấp này hay không, vẫn cần Tào Dũng quyết định.  

Tiếng chuông điện thoại vang lên liên hồi.  

Trong văn phòng, mọi người nghe thấy âm thanh phát ra từ hành lang liền giật mình, đồng loạt hướng mắt về phía cửa, tò mò muốn nhìn xem ai đang gọi điện.  

“Tào bác sĩ, ngài có đang ở bệnh viện không?”
Chu Tuấn Bằng đứng gần cửa nhất, vừa thấy bóng dáng Tào Dũng xuất hiện thì không khỏi giật mình.  

Chẳng lẽ Tào Dũng cũng như thần tiên đoán trước mọi chuyện, biết trước đêm nay sẽ bị gọi gấp về bệnh viện nên đã sớm quay lại?  

Nhưng khả năng này không lớn.  

Nhìn thấy Tào Dũng xách theo cặp công vụ và chìa khóa xe đi thẳng vào phòng, có thể đoán được là y có việc đột xuất nên mới vội vã trở lại.  

Nghe thấy bọn họ bàn tán, Tào Dũng cúp máy, quay sang hỏi: “Tìm ta có chuyện gì?”  

Mọi người đứng ngay ngắn trước cửa, nhất thời không hiểu tại sao Tào Dũng lại quay về bệnh viện vào lúc này.  

“Hôm nay có bệnh nhân sao?” Y hỏi tiếp.  

Lúc này, mọi người mới sực tỉnh—hóa ra Tào Dũng thật sự không hề biết có bệnh nhân tìm đến để y phẫu thuật.  

Chu Tuấn Bằng liền lên tiếng: “Có một đứa trẻ vừa được đưa vào từ khoa cấp cứu. Cụ thể thế nào, ngươi nghe bọn họ nói đi. Chẩn đoán ban đầu là ký sinh trùng não.”  

Tào Dũng gật đầu, quay sang gọi người phụ trách ca trực tối nay: “Tống bác sĩ.”  

Tống Học Lâm lập tức bước ra khỏi văn phòng. Chưa kịp để hắn lên tiếng, Tạ Uyển Oánh đã nhanh chóng báo cáo: “Là bệnh nhân giường 22.” Đồng thời, nàng cũng đưa bệnh án đến trước mặt Tào Dũng.  

Nhìn thấy nàng tích cực như vậy, Tào Dũng không khỏi bật cười. Hẳn là giống như Tống Miêu, Tạ Uyển Oánh cũng có hứng thú đặc biệt với bệnh án của khoa Thần Kinh Ngoại.  

Sau đó, Tào Dũng cầm bệnh án trở về văn phòng, những người khác vội vàng cầm phim chụp CT, bám theo phía sau.  

Ngồi xuống ghế, y mở bệnh án xem qua, vừa nghe cấp dưới báo cáo tình trạng bệnh nhân, vừa xem xét kỹ lại hình ảnh CT cùng các kết quả xét nghiệm. Một lát sau, y mới nói: “Đi liên hệ với khoa gây mê.”  

Xem ra ca phẫu thuật khẩn cấp này có thể tiến hành được.  

Mọi người nghe vậy lập tức lao ra ngoài gọi điện thoại cho khoa gây mê.  

Tống Học Lâm đứng yên trước bàn làm việc của Tào Dũng, liếc nhìn theo bóng lưng Tạ bác sĩ cùng những người khác rời đi, rồi thấp giọng hỏi: “Là người đó muốn đến sao?”  

Không ngoài dự đoán. Người ta không muốn đến chỗ tiểu thúc hắn chữa trị, nhưng đến lúc có việc lại tìm đến hắn. Dù gì bệnh nhân chưa chính thức chuyển đi, mà hắn là bác sĩ chủ trị, không thể mặc kệ được.  

Tào Dũng khẽ cau mày, ngón tay vô thức xoay xoay cây bút máy trong lòng bàn tay.  

Đúng lúc đó, điện thoại trên bàn vang lên.  

Thấy là người đại diện của Lâm Giai Nhân gọi đến, y bắt máy. Đầu dây bên kia báo rằng bọn họ đã đến dưới lầu khu điều trị, đang chuẩn bị lên.  

Tào Dũng dặn dò: “Bảo y tá sắp xếp một giường nghỉ trong phòng điều trị.”  

Ca đêm vốn ít y tá, một người vội vàng đi sắp xếp giường nghỉ theo lệnh bác sĩ, một người khác thì tất bật chuẩn bị cho ca phẫu thuật.  

Ở khoa Thần Kinh Ngoại, trước khi mổ thường có một bước quan trọng là cạo tóc bệnh nhân.  

May mắn thay, đứa trẻ này là bé trai, tâm lý tiếp nhận việc cạo trọc cũng dễ dàng hơn so với bé gái.
Trên thực tế, việc cạo trọc không phải là lựa chọn ưu tiên của bác sĩ khoa Thần Kinh Ngoại. Có thể nói, chẳng bác sĩ phẫu thuật nào muốn bắt bệnh nhân phải cạo đầu trước khi mổ. Nguyên nhân chính là dù có cẩn thận đến đâu, việc cạo tóc vẫn có thể gây ra những tổn thương nhỏ trên da đầu, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng trước, trong và sau phẫu thuật. Do đó, phương pháp này chỉ được áp dụng khi thực sự cần thiết.  

Đối với phẫu thuật xâm lấn tối thiểu, không phải lúc nào cũng cần cạo trọc. Ngược lại, hệ thống định vị 3D sử dụng trong loại phẫu thuật này yêu cầu đặt các miếng dán cố định trên da đầu, mà để dán được thì phải cạo tóc.  

Các y tá cũng đã quen với điều này, nên theo quy trình, họ luôn chuẩn bị sẵn dao cạo, chỉ chờ bác sĩ ra lệnh là lập tức tiến hành.  

Tạ Uyển Oánh vừa bước vào phòng bệnh đã thấy dao cạo, liền lên tiếng:  

“Nếu phải cạo tóc thì để ta làm. Hắn không cần phải cạo trọc.”  

“Không cần sao?” Y tá ngạc nhiên, “Không phải vẫn phải đưa đi chụp CT à?”  

“Không chụp nữa.”  

Nếu cần chụp, lúc nói chuyện với người nhà bệnh nhân đã phải tốn bao nhiêu công sức để giải thích rồi. Huống hồ, làm hai lần CT trong thời gian ngắn như vậy cũng không phải chuyện dễ khiến người nhà chấp nhận.  

Vậy không chụp CT nữa, tức là cũng không dùng hệ thống hướng dẫn không gian ba chiều trong phẫu thuật sao?  

Chuyện này đành chờ đến khi đưa bệnh nhân vào phòng mổ rồi mới quyết định. Tạ Uyển Oánh không khẳng định chắc chắn, vì nàng vẫn muốn sử dụng hệ thống hướng dẫn thần kinh. Còn dùng như thế nào thì cần bàn bạc thêm với Tào sư huynh.  

Không phải cạo trọc, y tá đỡ mất công, bệnh nhi cũng tránh được một nỗi đau, người nhà thì vui mừng—đúng là đôi bên cùng có lợi. Một lần nữa chứng minh, kỹ thuật của bác sĩ vẫn là yếu tố quan trọng nhất.  

Tạ Uyển Oánh bước đến bên giường bệnh, cầm đèn pin kiểm tra thần trí của cậu bé.  

Ba người theo sau nàng như ba chú cún con bám sát không rời—hai sư muội và một sư đệ. Tất cả đều chăm chú quan sát từng động tác của nàng.  

Phạm Vân Vân vừa nhìn xe dụng cụ của y tá, vừa chuẩn bị tư thế sẵn sàng trợ giúp sư tỷ bất cứ lúc nào.  

Đứng ngay bên cạnh nàng là Mễ Văn Lâm và Mễ Tư Nhiên, tuy rằng thái độ kiêu ngạo trước đây không thay đổi bao nhiêu, nhưng cách họ đối xử với Tạ sư tỷ lại hoàn toàn khác.

break
Trước Sau

Báo lỗi chương

Ngôn tình sắc Đam mỹ sắc