Từ câu chuyện của mẹ Á Hi, Lưu Lạp đã sớm nhận ra rằng bác sĩ bạn bè thường nói như vậy với bệnh nhân: "Bác sĩ sản khoa đó quá trẻ, không có kinh nghiệm, sợ phiền phức thôi. Ta đã nói rồi, không có gì đâu, như chính ngươi làm thụ tinh trong ống nghiệm, tỷ lệ hội chứng Down quá thấp."
Nghe những lời này, mẹ Á Hi tất nhiên gật đầu đồng ý: "Tôi hỏi bà ấy còn không bằng hỏi ngươi."
Nói thực lòng, Tạ Uyển Oánh biết Lưu Lạp và Đàm lão sư đều không thích nói nhiều, nhưng họ tuyệt đối là những bác sĩ rất có trách nhiệm. Việc yêu cầu nhiều xét nghiệm chỉ vì mẹ Á Hi rất cẩn thận.
Nhưng sau khi câu chuyện này xảy ra, mẹ Á Hi lại không tín nhiệm bác sĩ sản khoa, dù bà đã được bác sĩ cho đơn xét nghiệm, vẫn gọi điện hỏi bác sĩ bạn bè xem có cần làm những xét nghiệm đó không.
Nghe nói bác sĩ bạn bè của bà ấy đã khuyên: "Hầu hết những xét nghiệm đó không cần thiết, chỉ là lãng phí tiền bạc mà thôi."
“Ta thật sự chỉ nói nàng thôi.” Lưu Lạp thừa nhận mình có chút vụng về trong lời ăn tiếng nói, chỉ có thể kiên nhẫn nói với bệnh nhân, đành phải giữ thái độ nghiêm túc, “Đi tìm chồng nàng đi, hắn cũng chỉ tin vào bác sĩ bạn bè của nàng. Đến giờ ta vẫn chưa biết bác sĩ bạn nàng là ai, hỏi nàng, nàng lại không chịu nói rõ. Sau đó, ta mới tìm được con gái nàng để hỏi chuyện, cô ấy bảo hiện giờ tìm ngươi phải không? Ngươi là bác sĩ bạn của họ à? Ta nghĩ chắc không phải, đúng vậy, ngươi sẽ không chủ động gọi điện cho ta đâu.”
Bác sĩ bạn của mẹ Á Hi có phải là Đái sư tỷ không? Tạ Uyển Oánh chưa hỏi rõ ràng vấn đề này, nên không dám đoán bừa.
“Ngươi có biết bác sĩ bạn của họ là ai không?” Lưu Lạp hỏi, vẻ mặt rất tò mò về người bác sĩ bạn này, không biết là ai trong giới y học mà lại có thể khiến mẹ Á Hi tin tưởng như vậy.
Thật ra, bác sĩ bạn này có thể là một lão làng trong ngành y. Nếu là một đại lão trong y học, thì chuyện ít có đại lão nào dám tự nhận mình biết tất cả. Chắc chắn không phải chuyên môn của mình mà lại ra lệnh, thậm chí phủ nhận ý kiến của bác sĩ tuyến đầu đang điều trị cho bệnh nhân, chẳng hạn như chuyện bác sĩ lâm sàng đang tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân mà lại khuyên không nên làm như vậy. Đại lão như vậy Lưu Lạp rất ít gặp. Lưu Lạp không thích kiểu bác sĩ trẻ tuổi ấy, vừa khám bệnh cho bệnh nhân, lại không cho bệnh nhân chuyển viện, không hiểu sao những bác sĩ trẻ này lại có thể tự tin đến thế.
Nếu biết bác sĩ bạn của họ là ai, Lưu Lạp chắc chắn sẽ tìm cách liên lạc ngay. Nếu là một đại lão, thì chắc chắn Lưu Lạp không thể tiếp tục chịu đựng nổi nữa.
Thấy Lưu Lạp lão sư hỏi về vấn đề này, Tạ Uyển Oánh cũng nhận ra rằng sự việc đang xoay quanh bác sĩ bạn của bệnh nhân. Tuy nhiên, vì chưa rõ thân phận người này, cô chỉ có thể trả lời: “Tôi cũng không biết, Lưu lão sư.”
Lưu Lạp thở dài một hơi, ánh mắt thoáng buồn.
“Lưu lão sư, tôi đã xem xong bệnh án của nàng, sau này nếu có gì thắc mắc, tôi sẽ hỏi ngài.” Tạ Uyển Oánh nói.
“Đừng khách sáo như vậy. Nếu ngươi thấy có vấn đề gì, cứ tự nhiên đến cùng ta thảo luận.” Lưu Lạp trả lời.
Ngày hôm sau buổi tối, Đàm lão sư lại mời Lưu Lạp ăn cơm lần thứ hai.
Trong điện thoại, Đàm lão sư nói sẽ tiện đường đón nàng khi tan ca, bảo nàng đến chờ ở cổng Thủ Nhi.
Hôm đó đúng là một ngày làm việc bận rộn, lại phải kiểm tra danh sách bệnh nhân Tim Ngoại II, thời gian hơi gấp gáp.
Quy trình làm việc ở phòng khám cơ bản không có gì thay đổi, làm sớm sẽ kịp giao ban rồi đi kiểm tra bệnh nhân.
Vừa mới tới buổi sáng, Lư chủ nhiệm đã hỏi về tình hình PICU hôm qua. Thủ Nhi và Quốc Hi khác nhau, bác sĩ nữ chuyên khoa ngoại khoa không phải là ít, nhưng lại thiếu vắng bác sĩ chuyên khoa tim. Lư chủ nhiệm tỏ vẻ rất thích thú với cô nữ bác sĩ trẻ này: “Cô tên gì? Chỉ nghe lão sư cô nhắc đến một lần, nhớ rõ cô làm máy tạo nhịp tim đúng không? Nhưng cô chưa làm qua phẫu thuật cài máy tạo nhịp tim phải không?”
“Chưa làm qua.” Tạ Uyển Oánh thành thật trả lời. Cô chưa qua Tim Nội khoa, nên cũng ít có cơ hội tiếp xúc với phẫu thuật can thiệp. Còn Tim Ngoại khoa mới đến, cô vừa mới học xong, rất nhiều công việc mới vẫn chưa có cơ hội thực hành.
“Ta sẽ để ngươi đi cùng Tào lão sư.” Lư chủ nhiệm nói với nàng và Tào Chiêu một cách ôn hòa, “Phẫu thuật này không khó lắm đâu.”
Vài đồng nghiệp nghe Lư chủ nhiệm nói vậy, lại bắt đầu suy đoán rằng phẫu thuật khó nhất trong khoa Tim Ngoại của tiểu nhi là gì. Đây là một câu hỏi khó trả lời, vì ở đây, những bệnh thường gặp có thể dễ dàng phát hiện ngay trong phòng khám.
Hôm nay, đội ngũ bác sĩ trong phòng kiểm tra đông đúc, họ từ giường bệnh đầu tiên đi kiểm tra lần lượt tất cả các bệnh nhân. Lư chủ nhiệm đi đầu, dáng vẻ rất nghiêm túc, như một vị tướng quân dẫn dắt quân lính.
Đặc trưng của khoa nhi là, trong phòng bệnh, bạn có thể nhìn thấy những đứa trẻ có vẻ bệnh tình nghiêm trọng, nhưng không phải lúc nào cũng cần chuyển vào PICU. Nguyên nhân rất đơn giản, vì trẻ em dễ dàng chuyển biến bệnh nhanh hơn. Những đứa trẻ này có thể phát triển bệnh tình rất nhanh, nên khó mà phát hiện kịp thời. Ở các phòng bệnh cho người lớn, bạn sẽ thấy những bệnh nhân chỉ cần nằm viện để điều dưỡng cơ thể, nhưng trong khoa nhi thì lại không có. Các bệnh nhân nhỏ chủ yếu gặp phải tình trạng thiếu oxy, đây là điểm chung của cả người lớn và trẻ nhỏ. Rất nhiều trẻ em đều phải đeo ống hút oxy.
Các bác sĩ nhi khoa thường đeo ống nghe, thăm khám bệnh nhân nhỏ, hình ảnh trông giống như những con thú nhỏ, như những bông hoa nhỏ khô héo hay những con chó, mèo con đang nhảy nhót quanh bệnh nhân.
Lư chủ nhiệm đứng trước mặt đứa trẻ, cúi người xuống, giống như một ông lão KFC, nhẹ nhàng nắm tay đứa trẻ, vừa thăm khám trái tim, vừa trấn an nó. Đứa trẻ nhìn vào đôi mắt của Lư chủ nhiệm, đôi mắt sáng trong như pha lê, tràn đầy sự ngây thơ và chân thành. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, có thể thấy được tâm hồn trong sáng như nước trong suốt của đứa trẻ. Ai mà không cảm thấy đau lòng khi nhìn thấy những đứa trẻ bệnh tật như vậy?
Đây là hình ảnh của những đứa trẻ dưới ba tuổi khi đi khám bệnh, chúng ngây thơ và dễ bị tổn thương.
Trẻ em lớn hơn, như Chu Tinh, khi bắt đầu hiểu chuyện có thể dễ dàng bị bác sĩ thuyết phục, nhưng dần dần, chúng sẽ khó lòng bị lừa dối. Thực tế, trẻ từ ba tuổi trở lên thì rất lanh lợi và tinh nghịch. Việc phân biệt trẻ sơ sinh và trẻ dưới ba tuổi có cơ sở khoa học rõ ràng. Trong độ tuổi này, sự phát triển của trẻ có những đặc điểm rất đặc biệt, vô cùng quan trọng. Khi trẻ mới sinh, não bộ của chúng chỉ phát triển khoảng 25% so với người trưởng thành, và đến ba tuổi, não bộ của chúng đã phát triển đến 80-90%. Điều này giải thích tại sao trẻ trên ba tuổi sẽ khó lừa hơn so với trẻ dưới ba tuổi.
Bởi vì Thủ Nhi rất chú trọng đến độ tuổi điều trị, nên ở đây, chúng ta còn có thể gặp những thanh thiếu niên khoảng mười sáu, mười bảy tuổi đang chuẩn bị phẫu thuật tim bẩm sinh. Mọi người thường nói, phẫu thuật tim bẩm sinh càng sớm càng tốt, và điều này là đúng. Tuy nhiên, một số bệnh có thể không rõ ràng từ ban đầu, gia đình và chính bản thân trẻ em đôi khi không dễ dàng nhận ra bệnh tình, khiến việc điều trị bị chậm trễ.
Một nguyên nhân quan trọng khác là, ở thời đại này, các hạng mục kiểm tra sức khỏe quá đơn giản. Trẻ em mỗi năm sẽ thực hiện kiểm tra sức khỏe theo yêu cầu của quốc gia tại trường học, trong đó, việc kiểm tra tim chủ yếu chỉ gồm điện tâm đồ và chụp X-quang ngực. Thậm chí, đôi khi điện tâm đồ cũng không được thực hiện. Thiếu thốn thiết bị kiểm tra chính xác, khiến bác sĩ chỉ có thể dùng ống nghe để phán đoán những bất thường rất nhỏ trong tim. Nếu có thể phát hiện ra qua ống nghe, thì bác sĩ đó thật sự là thần tiên.
Hơn nữa, chỉ dựa vào điện tâm đồ và X-quang ngực để kết luận về bệnh tim là rất hạn chế.
Lấy một ví dụ đơn giản, có một cô gái 16 tuổi bị khiếm khuyết vách liên nhĩ. Đây là một căn bệnh bẩm sinh, nghĩa là nó xuất hiện từ khi thai nhi phát triển, ngay từ giai đoạn phôi thai đã có sự dị thường. Sau này, khi trưởng thành, nó sẽ trở thành một trong những bệnh tim dị tật phổ biến ở người trưởng thành. Điều này chứng tỏ gì? Nó chứng tỏ rằng, việc phát hiện căn bệnh này rất khó khăn, bởi vì thiết bị y tế hiện tại không đủ chính xác để chẩn đoán. Thực tế, để phát hiện chính xác, cần phải làm siêu âm màu tim.
Tại sao bệnh này lại không thể phát hiện kịp thời qua điện tâm đồ và X-quang ngực? Để giải thích lý do, ta cần hiểu nguyên lý phát bệnh của nó.
Vách liên nhĩ giống như một bức tường ngăn cách giữa tâm nhĩ trái và tâm nhĩ phải. Tên gọi của nó đã thể hiện chức năng, đó là ngăn cản sự lưu thông của máu từ hai buồng tim này. Khi vách liên nhĩ bị khiếm khuyết, có thể là một vài lỗ thủng hoặc thiếu hẳn một phần của bức tường. Căn bệnh này có thể miêu tả một cách cụ thể như sau: thiếu một phần tường. Nếu thiếu một phần tường, sẽ có thể là một vài lỗ thủng nhỏ hoặc hoàn toàn thiếu mất một khối tường.
Nguyên nhân gây ra căn bệnh này là bẩm sinh, và nó xảy ra trong quá trình phát triển của vách liên nhĩ. Vách liên nhĩ được hình thành trong giai đoạn thai nhi, vì vậy, khi xây dựng, phải bắt đầu từ một mặt vách mới. Quá trình này gọi là nguyên phát cách. Nếu trong quá trình hình thành vách này có sự bất thường, dẫn đến thiếu một phần của tường, tạo ra khe hở, thì đó được gọi là nguyên phát khổng. Nếu khe hở này không được lấp đầy, sẽ dẫn đến tình trạng vách liên nhĩ thiếu tổn hại. Đây là một trong những dạng bệnh lý của vách liên nhĩ thiếu tổn hại.
Theo cách giải thích trên, nguyên phát cách là yêu cầu phải xây dựng hoàn chỉnh, nếu không sẽ dẫn đến bệnh. Vấn đề chính ở đây là quá trình xây dựng vách liên nhĩ diễn ra trong bụng mẹ trong giai đoạn thai nhi.
Một điểm yếu lớn trong quá trình hình thành vách liên nhĩ của thai nhi là, trong thời kỳ này, thai nhi không thở bằng phổi mà nhận oxy và dinh dưỡng từ nhau thai. Chính vì vậy, trong giai đoạn này, cần có sự thông suốt giữa tâm nhĩ phải và tâm nhĩ trái để máu giàu oxy từ nhau thai có thể dễ dàng đi vào tâm nhĩ trái, từ đó đi vào tâm thất trái và lưu thông khắp cơ thể.
Vậy thì, khi vách liên nhĩ đã xây dựng không thể để cho mặt tường bị phá hỏng, vậy phải làm sao đây?
Đành phải để cho tường nguyên thủy bị thoái hóa, tạo ra một khe hở, khe hở này được gọi là kế phát khổng, và nó sẽ phát triển ra sau, vì thế người ta gọi đó là kế phát khổng.
Kế phát khổng hữu dụng trong giai đoạn thai nhi, nhưng sau khi sinh, nó không còn tác dụng nữa, và có thể dẫn đến những vấn đề nếu không được xử lý kịp thời. Do đó, cần phải chuẩn bị cho việc lấp đầy khe hở đó, tức là tạo ra một mặt tường mới trên vách liên nhĩ, gọi là kế phát cách. Mặt tường này có tác dụng như miếng vá, và có một tên gọi quen thuộc mà không ít bà mẹ từng nghe qua: trứng viên khổng.
Tóm lại, trong giai đoạn thai nhi, để bảo vệ sự thông suốt giữa tâm nhĩ trái và tâm nhĩ phải, kế phát cách và nguyên phát cách không thể hòa hợp. Chính vì vậy, máu sẽ từ tâm nhĩ phải đi qua trứng viên khổng, rồi thông qua khoảng cách giữa nguyên phát cách và kế phát cách để vào tâm nhĩ trái.
Trong điều kiện bình thường, sau khi sinh, kế phát khổng sẽ tự khép lại. Khi trẻ được sinh ra, áp lực trong tâm nhĩ trái lớn hơn tâm nhĩ phải, do đó, áp lực sẽ đẩy miếng vá vào khe hở, làm sạch khe hở này.
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là có những trường hợp khi khe hở quá lớn, miếng vá không đủ rộng để lấp kín, dẫn đến việc khe hở không thể tự khép lại hoàn toàn. Những trường hợp này chiếm một tỷ lệ nhất định trong cộng đồng, và con số có thể lên đến 20-30%. Đây là một dạng bệnh lý khác của vách liên nhĩ thiếu tổn hại, gọi là kế phát khổng vách liên nhĩ thiếu tổn hại.
Nghe vậy, có thể một số người không tin rằng căn bệnh này lại phổ biến như vậy, bởi vì xung quanh họ rất ít khi nghe nói đến. Tuy nhiên, lý do là phần lớn những người mắc bệnh này có khe hở rất nhỏ, không ảnh hưởng đến sự lưu thông máu trong tim. Những bệnh nhân này thường không có triệu chứng, chưa đi khám, và nếu có phát hiện, cũng không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe, nên y học thường cho rằng không cần can thiệp. Chưa có triệu chứng rõ rệt, thì đâu cần phải can thiệp phẫu thuật?
Tuy nhiên, đối với những người có triệu chứng, phẫu thuật là cần thiết. Những triệu chứng này xuất hiện khi diện tích khe hở quá lớn, khiến máu từ tâm nhĩ trái chảy vào tâm nhĩ phải quá nhiều, tạo ra hiện tượng tăng huyết áp động mạch phổi. Nếu tình trạng này kéo dài, sẽ dẫn đến sự biến dạng của động mạch phổi, gây ra tình trạng suy tim phải, tức là khi tâm nhĩ phải không thể bơm đủ máu vào tâm nhĩ trái và tâm thất trái, dẫn đến suy tim mạn tính, với các triệu chứng như tím tái, khó thở. Tình trạng này gọi là hội chứng ngải sâm mạn cách. Khi bệnh phát triển đến mức này, chỉ có thể điều trị bằng phẫu thuật ghép phổi.