Dù là phẫu thuật truyền thống hay can thiệp phẫu thuật, việc kiểm tra trước khi thực hiện là điều bắt buộc, để xác định chính xác vị trí của ổ bệnh trong quá trình phẫu thuật. Hôm nay, bệnh nhân này lại có tình trạng đặc biệt. Báo cáo CT tạm thời không phát hiện phình động mạch, bác sĩ phẫu thuật không thể xác định có khối u hay không, và cũng không rõ vị trí cụ thể của khối u, không thể khẳng định tình trạng mạch máu trong não có vấn đề hay không. Vì vậy, bác sĩ và người nhà bệnh nhân đã thảo luận và quyết định trước khi phẫu thuật cần phải thực hiện một xét nghiệm chụp hình não để xác định tình trạng mạch máu trong não một cách toàn diện, nhằm phát hiện nếu có bất kỳ sự bất thường nào.
Quá trình chụp hình diễn ra với nhiều tư thế khác nhau của cơ thể.
Trên máy theo dõi, hình ảnh xuất huyết não hiện lên rõ rệt.
Can thiệp phẫu thuật lúc này mới có ý nghĩa. Mỗi chuyên khoa có cách tạo ảnh và phân tích hình ảnh khác nhau, giúp hiện rõ các cơ quan và mạch máu, từng cơ quan đều có những đặc điểm riêng biệt. Ví dụ như chụp hình mạch máu phổi, mạch máu phổi giống như những nhánh cây tươi tốt phân ra trái phải. Còn mạch máu tim lại giống như các nhánh nhỏ nằm ngang. Hình ảnh xuất huyết não thì kỳ lạ và khó hiểu, mỗi khoảnh khắc đều giống như những bức tranh trừu tượng, có thể là cành cây khô trụi, mọc lên hai bông hoa, hoặc là một đống rối loạn kỳ quái, hoặc là vài cành khô đơn độc, mang cảm giác lẻ loi.
Bác sĩ tim mạch tại hiện trường đều im lặng, không ai dám lên tiếng, mọi người đều tập trung xem hình ảnh, nhưng lại không thể phân biệt rõ ràng được vị trí hay nguyên nhân.
Mỗi chuyên khoa đều có kiến thức riêng, như những ngọn núi khác nhau. Dù sinh viên y khoa hiện nay có thể học từ sách vở và qua thực tập, nhưng để thực sự nắm vững một chuyên ngành toàn diện, không thể chỉ qua một khoảng thời gian ngắn mà đạt được, mà cần phải tích lũy thực tế trong suốt thời gian dài.
Bác sĩ tim mạch không thể chỉ dựa vào hình ảnh mạch máu tim để phỏng đoán tình hình xuất huyết não, vì chúng hoàn toàn khác nhau về phân bố mạch máu.
Hai người trong phòng giải phẫu vốn dĩ sở hữu những kiến thức hoàn toàn khác biệt, độc lập và không liên quan đến nhau.
Điều duy nhất mà họ có thể xác nhận sau khi quan sát là, bản đồ phân bố xuất huyết não phức tạp hơn nhiều so với hệ thống mạch máu tim mà họ quen thuộc.
Ngoại khoa, đặc biệt là Ngoại Thần Kinh, không phải chuyện đùa. Phân bố xuất huyết não quá rộng, và hình ảnh chiếu ra quá nhỏ, không thể rõ ràng. Để tổng hợp chúng lại, chỉ dựa vào máy móc và làm mô hình 3D thì quá chậm chạp, đành phải để các bác sĩ Ngoại Thần Kinh tự dùng đầu óc xoay xở.
Để trở thành bác sĩ Ngoại Thần Kinh, đầu óc của họ phải cực kỳ nhanh nhạy và tinh tế.
Trong phòng phẫu thuật, mọi thứ đều im lặng. Không gian yên tĩnh, chỉ có tiếng máy móc và hơi thở của các bác sĩ.
Nhóm bác sĩ Ngoại Thần Kinh tập trung nhìn vào màn hình, ánh mắt như những chiếc camera, nghiêm túc, kỹ càng xem từng hình ảnh và tính toán trong đầu.
Nhóm bác sĩ Tim Nội Khoa hơi ngập ngừng, cảm giác hơi xấu hổ khi không thể theo kịp tiến độ. Lâm Thần Dung tiến lại gần Tạ Uyển Oánh, thì thầm hỏi: "Hiện giờ tình hình thế nào, ngươi có biết không?"
"Đoạn đầu chiếu ra là vị trí động mạch chủ bên phải, bình thường thôi," Tạ Uyển Oánh trả lời, bắt đầu từ hình ảnh tim mạch mà Lâm lão sư đã quen thuộc, chia sẻ những gì nàng hiểu.
Lâm Thần Dung không nghe rõ câu trả lời của nàng, vì hắn không nghĩ rằng ảnh chụp của Ngoại Thần Kinh lại bắt đầu từ mạch máu ở động mạch chủ, có phần lạ lẫm.
Càng khiến hắn ngạc nhiên là, bác sĩ tim mạch như hắn lại không nhận ra điều này, trong khi nàng – một thực tập sinh – lại nhanh chóng nhận ra, không hề ngốc chút nào.
"Làm vậy là đúng," Lâm Thần Dung tự nhủ: "Có lẽ những bác sĩ Ngoại Thần Kinh trẻ tuổi, hoặc những người có khả năng chưa đủ, thì cũng không thể suy nghĩ nhanh nhạy như nàng."
Lữ phó chủ nhiệm đứng phía bên kia, nhìn như đang lắng nghe câu chuyện của họ. Can thiệp phẫu thuật là một kỹ thuật mới, là lĩnh vực mà những bác sĩ phẫu thuật lâu năm như ông không quen thuộc. Lữ phó chủ nhiệm – một bác sĩ giàu kinh nghiệm – thật sự khó lòng hình dung ra điều này ngay lập tức.
"Ngươi cứ tiếp tục nói đi," Lâm Thần Dung nói với Tạ Uyển Oánh, vừa đứng bên cạnh, nghiêng tai lắng nghe.
Hình ảnh can thiệp thần kinh bắt đầu từ động mạch chủ là điều không có gì lạ. Bởi vì động mạch chủ là điểm xuất phát của toàn bộ hệ thống mạch máu trong cơ thể, bao gồm cả động mạch não. Cụ thể hơn, động mạch chủ phát ra động mạch cánh tay và động mạch cảnh chung bên trái, cũng như động mạch dưới xương quai xanh trái, trong đó động mạch cánh tay lại phân ra động mạch cổ bên phải và động mạch dưới xương quai xanh phải. Cả hai động mạch cổ chia thành động mạch nội cổ trái phải, và động mạch dưới xương quai xanh cũng chia ra động mạch đốt sống hai bên.
Điều quan trọng là, động mạch nội cổ trái phải và động mạch đốt sống trái phải là những nhánh động mạch cung cấp máu cho não, và đó chính là nguồn gốc của xuất huyết não.
Vì vậy, sau khi kiểm tra xong khu vực cung động mạch chủ, bước tiếp theo trong việc kiểm tra mạch máu thần kinh là kiểm tra động mạch cổ bên trái và phải, cùng với động mạch đốt sống trái phải.
Công việc này giống như việc kiểm tra một hệ thống kênh rạch phức tạp, trước tiên phải xác nhận xem có vấn đề gì ở nguồn gốc, rồi mới tiếp tục kiểm tra các nhánh rạch nhỏ hơn để xem có vấn đề gì không.
“Bước kiểm tra thứ hai là kiểm tra động mạch cổ bên trái và phải, tạm thời không phát hiện gì bất thường. Tuy nhiên, động mạch đốt sống bên phải có một đoạn hơi hẹp.” Tạ Uyển Oánh vừa kiểm tra vừa báo cáo kết quả vừa phẫu thuật.
Kết quả đã có rồi? Có vấn đề mạch máu ở bệnh nhân? Những người đứng ngoài phòng phẫu thuật giật mình. Các bác sĩ phẫu thuật can thiệp quá nhanh, hơi vội vàng, trong khi họ chỉ đứng xem mà không tham gia, khiến cho họ không thể theo kịp nhịp độ của cuộc phẫu thuật.
Tạ Uyển Oánh nói mà không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào, tốc độ lý giải và ghi nhớ của nàng thật sự rất ấn tượng.
“Trước đây báo cáo CT không ghi nhận điều này sao?” Lâm Thần Dung hỏi, hắn không xem qua hồ sơ bệnh án của bệnh nhân nên có chút khó hiểu.
“Đoạn mạch máu hẹp này không phải hoàn toàn bị tắc nghẽn. Thực ra, bệnh nhân đã được điều trị tan huyết khối từ trước.” Tạ Uyển Oánh giải thích.
“À.” Lâm Thần Dung quay đầu lại, chờ nàng tiếp tục nói, “Vậy hiện giờ có phải họ muốn xử lý đoạn hẹp này không?”
“Có thể xử lý được. Nhưng quan trọng nhất là phải tìm ra phình động mạch nội sọ.” Tạ Uyển Oánh không quên nhắc đến cuộc họp thảo luận phẫu thuật của bộ môn Ngoại Thần Kinh trước đó.
Đoạn mạch hẹp này dễ xử lý. Tuy nhiên, để loại bỏ triệt để bệnh lý trong cơ thể bệnh nhân, yêu cầu phải can thiệp từ nguồn gốc, không thể chỉ giải quyết tạm thời. Nếu có rung nhĩ, cần điều trị rung nhĩ. Còn nếu bệnh nhân có các bệnh lý khác như mỡ máu cao, huyết áp cao, phải tiếp tục điều trị lâu dài với thuốc. Phẫu thuật thường chỉ giải quyết phần bệnh lý bề mặt, không phải điều trị tận gốc.
Đó cũng là lý do vì sao bác sĩ luôn nhấn mạnh với bệnh nhân về tầm quan trọng của việc theo dõi sau phẫu thuật và việc dùng thuốc lâu dài.
“Có tìm thấy không?” Vì không theo kịp được nhịp độ của cuộc phẫu thuật, Lâm Thần Dung đành phải hỏi lại kết quả.
“Có ba cái.”
Cái gì!
Mọi người trong phòng đều bất ngờ. Họ chợt nhận ra rằng người khiến họ phải "nổ tung" không phải là các bác sĩ phẫu thuật, mà chính là Tạ Uyển Oánh. “Ngươi nói ba cái?” Lâm Thần Dung đưa tay lên đếm, không dám tin vào tai mình, hỏi lại nàng. Hắn hoàn toàn không nhận ra được ba cái này. Nhưng nàng lại khẳng định là ba cái.
“Là ba cái.” Tạ Uyển Oánh chắc chắn đáp.
“Ba cái thì chúng nó nằm gần nhau à?”
“Không phải, hai cái nằm gần nhau, còn một cái cách xa.” Tạ Uyển Oánh giải thích.
Ba cái? Nhiều như vậy? Tình huống này có thể vượt qua được đánh giá của các bác sĩ Ngoại Thần Kinh trước khi phẫu thuật hay không?
Lâm Thần Dung và các bác sĩ trong khoa Thần Kinh Ngoại đều im lặng, không ai lên tiếng. Nhóm bác sĩ Nội khoa thì tỏ ra bất ngờ, tim họ như có chút rung động trước những con số này.
Đối với các bác sĩ chuyên khoa Thần Kinh Ngoại, căn bệnh này không quá xa lạ, họ cũng không cảm thấy quá kinh ngạc. Trong lâm sàng, các ca phình động mạch não (MIA) như thế này không phải là hiếm. Thống kê cho thấy, tỷ lệ phát bệnh của các ca phình động mạch não có thể lên đến 20%. Đặc biệt, nhóm bệnh nhân này thường là những người ở độ tuổi trung niên, như Hồ bác sĩ. Tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới cao gấp ba lần so với nữ giới, trong đó một số bệnh nhân có huyết áp hơi cao, điều này là đặc trưng của bệnh. Sau khi suy nghĩ lại, kết quả phát hiện bệnh của người bệnh này cũng không quá bất ngờ.
Lý do các bác sĩ Thần Kinh Ngoại im lặng có lẽ là do vấn đề xử lý phương pháp điều trị cho bệnh nhân này.
Nguyên tắc điều trị MIA trong lâm sàng là: tốt nhất nên can thiệp phẫu thuật một lần, loại bỏ hết các khối phình động mạch trong não để tránh phải phẫu thuật lại sau này. Vì sao lại phải xử lý tất cả ngay từ đầu? Bởi vì nguyên nhân gây bệnh MIA chủ yếu là bẩm sinh, có thể nói, phình động mạch là do sự dị thường của thành động mạch bẩm sinh gây ra. Điều này có nghĩa là, rất nhiều bệnh nhân chỉ phát hiện bệnh khi các khối phình động mạch đã lớn lên sau nhiều năm, hoặc khi chúng đã vỡ ra gây nguy hiểm tính mạng. Trước khi phát tác, bệnh nhân không có triệu chứng rõ ràng, khám sức khỏe định kỳ cũng không phát hiện ra gì. Chính vì vậy, khi bệnh đã được phát hiện, việc can thiệp sớm để loại bỏ các khối phình là rất quan trọng, để tránh chúng phát triển và vỡ ra, gây nguy hiểm đến tính mạng.
Làm vậy liệu bác sĩ khoa Thần Kinh Ngoại có thể thực hiện phẫu thuật can thiệp một lần được không? Bác sĩ Nội khoa không hiểu rõ lắm về vấn đề này.
Lâm Thần Dung quay sang Cận Thiên Vũ, khẽ thì thầm: “Ngoài các bác sĩ Thần Kinh, không thấy ai nói gì, chắc họ đang cân nhắc xem có nên chuẩn bị cho một loạt phẫu thuật không?”
Do không hiểu rõ quy trình của khoa Thần Kinh Ngoại, cô chỉ có thể quan sát biểu cảm của các đồng nghiệp. Tuy không ai nói ra lời nào, nhưng sắc mặt nghiêm trọng của họ cho thấy khả năng phẫu thuật can thiệp trong tình huống này không cao. Thực tế, có khả năng sẽ chuyển sang thực hiện phẫu thuật theo từng giai đoạn.
Cận Thiên Vũ ôm tay trước ngực, ánh mắt theo dõi Lữ phó chủ nhiệm đang cầm điện thoại, có vẻ như ông đang liên hệ với phòng phẫu thuật lầu 3 và bác sĩ gây mê.
Tuy nhiên, người cuối cùng đưa ra quyết định vẫn là Tào Dũng. Ngoài ra, còn có một chuyên gia từ bên ngoài được mời đến, nhưng lão Địch chủ nhiệm lớn tuổi lại không lên tiếng.
Tóm lại, việc phẫu thuật tiếp theo sẽ như thế nào, chỉ có thể đợi các bác sĩ Thần Kinh Ngoại quyết định, liệu họ có tiếp tục can thiệp phẫu thuật hay không.
"Muốn làm không?" Y tá trong phòng phẫu thuật hỏi nhóm bác sĩ.
Nếu có thể thực hiện, thì cần chuẩn bị các công cụ để tắc mạch phình động mạch.
Can thiệp phẫu thuật để xử lý phình động mạch chính là phương pháp tắc máu. Vì can thiệp này được thực hiện trong mạch máu, không thể giống như phẫu thuật mở, nơi các bác sĩ có thể trực tiếp dùng kẹp để ngắt mạch máu và làm khô phình động mạch. Do đó, nhóm bác sĩ phải nghĩ ra một phương pháp khác để tiêu diệt phình động mạch: thay vì cắt bỏ, họ sẽ đưa vào một ống dẫn, giống như việc đổ nước vào một cái hồ. Bằng cách này, dòng máu sẽ không thể đi vào khu vực phình động mạch nữa, khiến phình động mạch không thể tăng trưởng và vỡ ra.
Phương pháp này có thể giải quyết vấn đề phẫu thuật mở để kẹp mạch máu, mặc dù cách làm khác nhau, nhưng kết quả đều như nhau. Đây cũng là một phương pháp khá hợp lý trong y học hiện đại, giống như một kỹ thuật được nghiên cứu và áp dụng rộng rãi.
Đối với câu hỏi của y tá và sự hoài nghi của bác sĩ Nội khoa, nhóm bác sĩ Thần Kinh Ngoại không vội đưa ra câu trả lời.
Việc thực hiện can thiệp tắc máu có thể hay không không phải là quyết định dễ dàng, mà còn phụ thuộc vào kích thước của phình động mạch.
Phẫu thuật mở có ưu điểm là bác sĩ chỉ cần tìm được phình động mạch và có tay nghề khéo léo, họ có thể loại bỏ những phình động mạch rất nhỏ. Nhưng đối với phương pháp tắc máu, nếu dụng cụ không thể vào được mạch máu vì đường kính quá nhỏ, thì không thể làm gì được. Đây là một kỹ thuật can thiệp cực kỳ phức tạp và luôn có hạn chế về khả năng thực hiện.
Điều đáng lo ngại nhất là, phình động mạch có thể có kích thước rất nhỏ, nhưng khả năng xuất huyết lại rất cao. Phình động mạch có đường kính dưới 0,5 cm được coi là nhỏ, từ 0,6 cm đến 2,5 cm là vừa, và những phình động mạch có đường kính trên 2,5 cm được coi là lớn. Những phình động mạch lớn rất dễ vỡ, và việc can thiệp tắc máu trong trường hợp này sẽ cực kỳ nguy hiểm.