“Mau, mau ra bến! Quan Thứ sử truyền lệnh dìm chết con Mận kìa!” “Ối trời ơi, sao lại thế? Con Mận nó hiền lắm mà…”
Tiếng chân người rậm rịp đổ dồn về phía bến nước. Mặt trời mới nhô khỏi rặng tre, sương sớm còn chưa tan hẳn đã vang lên chuyện dữ.
Con Mận, con gái út nhà họ Trần, mấy năm nay tiếng tăm nức làng: nết na, hiền hậu, lại có giọng hát trong vắt như gió lướt qua lá sen. Vậy mà sáng nay, cả làng xôn xao: nó mang thai mà không chồng.
Người ta bảo nó chửa hoang. Lệnh từ phủ quan đã ban: con Mận làm ô uế gia phong, bôi nhọ thanh danh dòng họ, làm nhục lễ giáo… phải dìm xuống sông để răn đe, trừ hậu họa.
Bà Trần, mẹ nó, ngã quỵ bên gốc gạo, gào khóc đến lạc giọng. Dân làng kẻ đứng nhìn, người quay mặt. Ai cũng xót, mà cũng sợ dây vào tội. Tiếng trống lệnh từ đình phủ dội vào tai, át cả lời cầu xin tuyệt vọng của người mẹ.
“Sao lại thế được? Sao lại thế chứ?” Một cụ ông đội nón mê, tay chống gậy, mắt mờ vẫn cố lần mò ra bến. Giọng cụ run run: “Con Mận nó ngoan lắm… ngày nào cũng đem cháo lên chùa cúng sư, có bữa còn dắt cháu tôi đi học chữ nữa kia mà… Ai nỡ lòng…”
Dưới bến, nước sông đục ngầu. Bốn tên lính chực sẵn. Mận bị trói tay, bịt miệng, kéo lê trên nền đất ẩm. Vạt áo nâu sòng dính bùn lẫn máu từ trận đòn hôm trước.
Bà Trần gào khản cổ: “Xin đừng giết con tôi… nó vô tội… nó không có tội mà…”
Đám đông nín lặng. Không ai dám chen ra. Mắt đỏ hoe, nhưng chân như dính đá.
Mận bị kéo đến mép nước. Trước khi bị đẩy xuống, nó ngoái đầu lại. Mắt dõi về vọng lâu phủ đầy rêu xanh nơi nó và người ấy từng thề nguyện dưới trăng rằm.
Không có ai cả. Chỉ có tiếng gió rít qua rặng tre và đàn sẻ vỗ cánh bay loạn.
“Khoan… khoan đã!”
Một giọng nam cất lên, vang giữa đám đông.
Mọi người ngoảnh lại. Một chàng trai trẻ hớt hải chạy xuống bãi. Áo xống xộc xệch, tóc tai rối bời. Là cậu Nguyễn công tử trưởng của Tri phủ Nguyễn Văn Lễ, người từng trọ học tại làng đầu xuân năm ngoái.
Chàng đứng giữa bãi sông, thở dốc, giọng lạc đi vì gấp: “Xin… xin các vị hãy khoan đã! Nàng ấy vô tội. Nếu thật sự… có thai, thì… thì ấy là con của hạ sinh.”
Đám đông rúng động. Nhiều tiếng "trời ơi" rì rầm vang lên như sóng vỗ.
Viên cai đội bước ra, quát lớn: “Ngươi là ai mà dám can án? Đây là lệnh của quan Thứ sử, chẳng phải chuyện để phường học trò chen miệng!”
Nguyễn Văn Minh siết chặt nắm tay, cố giữ giọng vững: “Hạ sinh là Nguyễn Văn Minh, trưởng tử Tri phủ Nguyễn Văn Lễ. Nếu có tội, thì kẻ có tội là hạ sinh. Xin các vị… xin tha mạng cho nàng ấy!”
Mận vùng đầu, lắc lắc, nước mắt lăn dài: “Công tử… xin chớ ăn nói hồ đồ! Xin đừng vì tiện thiếp mà chuốc họa…”
Tên lính quan bật cười nhếch mép, giọng mỉa: “Ai chẳng hay công tử với ả từng theo học cùng thầy. Nhưng công tử là người đàng hoàng, còn chuyện đứa bé… không cần công tử phải nhận thay.”
Nguyễn Văn Minh quay sang nhìn quan Thứ sử người đang đứng uy nghi giữa đình tiền, ánh mắt lạnh như sương sớm: “Nếu thực muốn rõ trắng đen, sao không hỏi đến công tử của đại nhân? Vì sao kẻ liên can nhất lại chẳng có mặt hôm nay?”
Quan Thứ sử cau mày, nét mặt vẫn nghiêm. Giọng ông trầm xuống: “Nhà ngươi nên biết vị trí của mình. Đây là án đã có phán quyết, không phải nơi để kẻ thư sinh lắm lời gây rối.”
Nguyễn Văn Minh nén giận, giọng chàng trầm hẳn: “Hạ sinh không dám cãi, chỉ xin một lời công đạo cho nàng ấy. Mang thai không chồng… là lỗi của một người, cớ sao chỉ một bên phải chịu tội chết?”
Quan Thứ sử nheo mắt, giọng ông cao hẳn lên: “Ngươi tưởng mình là ai mà dám nói lời hàm hồ giữa công đường? Nữ tử kia hoang thai, đã làm ô danh gia tộc, đảo lộn cương thường, không chồng mà có con.”
“Hoang thai ư?” Nguyễn Văn Minh nhếch nửa miệng cười, nhưng trông chẳng khác gì một kẻ sắp ngã quỵ. Ánh mắt chàng đỏ ngầu, giọng nói run rẩy như nén giận, nén đau.
“Mận… sao nàng không nói đi? Đứa bé trong bụng nàng… là con của ai? Chẳng phải là của công tử yêu quý của đại nhân đó sao?”