Nghe cô chất vấn một tràng, anh ta bèn lườm cô một cái rõ dài: “Không phải cô đến chợ đen à?”
Lý Diệu Tình đang định tuôn thêm một tràng nữa thì sững người, một lúc sau mới phản ứng lại.
“Ờ, đúng rồi, đây không phải chợ đen sao?”
Người đàn ông không trả lời, tiếp tục hỏi: “Mua đồ hay bán đồ?”
Lý Diệu Tình gãi đầu, vẻ mặt tò mò: “Mua với bán có gì khác nhau à?”
“Nếu là mua thì nộp năm xu, bán thì một hào.”
Lý Diệu Tình cuối cùng cũng hiểu vì sao lúc nãy người này lại chặn cô lại.
“Đây, một hào.” Cô thoải mái móc ra một tệ mười xu đưa cho anh ta.
Người đàn ông nhận tiền rồi mới cho cô vào trong. Vào đến chợ đen, Lý Diệu Tình mới nhận ra nơi này bây giờ chẳng khác gì cảnh họp chợ ở nông thôn đời sau. Những người đến bán hàng thì cứ thế ngồi xổm hai bên đường, bày đồ ra đất.
Người mua thì đi dọc giữa đường, thấy món nào ưng thì dừng lại hỏi giá. Vì thời này là kinh tế kế hoạch, không cho phép giao dịch tư nhân. Nên người đến đây bán hàng đều lén lút, không ai dám rao lớn tiếng.
Lý Diệu Tình chọn một chỗ cô thấy khá ổn, đặt túi vải xuống đất, vén một góc lên, để ai muốn mua có thể nhìn thấy rõ cô đang bán gì. Vừa ngồi chưa bao lâu, có người đến trước mặt cô.
“Đồng chí, gạo trắng này bán sao thế?” Lý Diệu Tình ngẩng đầu nhìn, là một bà cụ tóc bạc, ăn mặc gọn gàng sạch sẽ.
“Gạo trắng hai hào một cân, thêm một cân tem gạo.” Cô cụp mắt đáp.
Bà cụ hơi cau mày, giá này y chang ở hợp tác xã.
“Có nhất thiết phải dùng tem gạo mới bán không đồng chí?” Bà cụ vốn vì thiếu tem gạo nên mới định đến chợ đen mua giá cao.
“Có tem thì hai hào một cân, không tem thì sáu hào một cân nhé.”
Lý Diệu Tình đến chợ đen chỉ để kiếm ít tem gạo, rồi đến nhà ăn quốc doanh ăn bữa ra trò, chứ không định kiếm lời, nên giá cũng không nâng cao.
“Được, cho tôi mười cân, đây là sáu tệ.”
Bà cụ lấy sáu tệ trong túi đưa cho cô.
Bà vừa đi thì lại có một phụ nữ trung niên tiến tới, Lý Diệu Tình lặp lại câu nói khi nãy.
Người phụ nữ này vẫn còn ít tem gạo, Lý Diệu Tình liền bán nốt mười cân còn lại. Thu được hai tệ và mười cân tem gạo xong, cô rời khỏi chợ đen luôn. Chưa đến hai mươi phút sau, Lý Diệu Tình đã thay lại bộ đồ trước đó, rồi đi về phía nhà ăn quốc doanh.
Đúng giờ ăn trưa, Lý Diệu Tình cuối cùng cũng được tận mắt thấy nhà ăn quốc doanh thời này trông như thế nào. Chỉ thấy trên tấm bảng nhỏ viết món ăn và giá cả trong ngày, bên cạnh là nhân viên phục vụ vẻ mặt kiêu căng, không kiên nhẫn thúc giục khách mau gọi món.
Lý Diệu Tình nhìn bảng món, rồi bước tới trước mặt nhân viên phục vụ.
“Đồng chí, cho tôi một phần thịt kho cải thảo miến, một phần thịt kho tàu, thêm bát cơm.”
“Hai tệ, thêm nửa cân tem thịt và hai lạng tem gạo.” Nhân viên kia chẳng thèm ngẩng đầu.
Lý Diệu Tình lấy tiền và tem từ túi ra đưa. Xong xuôi, cô tìm một bàn trống ngồi xuống, đợi được gọi số lấy đồ ăn. Thời này nhân viên không bưng đồ ra bàn, mà chỉ gọi số ở cửa sổ, ai được gọi thì tự ra lấy.
Chừng hơn mười phút sau, cô nghe thấy số mình bị gọi, bèn đứng dậy ra cửa sổ lấy đồ ăn. Không thể không nói, nhà ăn quốc doanh thời này thật là chất lượng, bát thịt kho tàu đầy ú ụ, không giống mấy nhà hàng đời sau toàn cho thêm rau vào.
Lý Diệu Tình gắp một miếng thịt kho, nếm thử, mùi vị cũng khá ổn, đúng chuẩn vị thịt kho nguyên bản, không như đời sau toàn mùi hương liệu với phụ gia. Nguyên bát thịt kho tàu lớn thế mà cô ăn cái vèo hết sạch. Ra khỏi nhà ăn, bụng cô tròn vo vì no.