Thư viết rất dài, hết lải nhải kể mấy chuyện đất lề quê thói, rồi dịu dàng tự thuật đôi ba câu chuyện, có điều, một câu xem chừng rất bình thường trong đó lại khiến nàng thấy mắt cay cay.
“Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực cả hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.”
Một chữ “lại” vô tình viết ra mà khiến Tây Lăng Hành trằn trọc suốt cả đêm.
Sau khi dự tiệc Bàn Đào, khách khứa thảy đều giải tán, chẳng còn khách đương nhiên chẳng cần dùng tới cung nữ gỗ nữa, số cung nữ thật trong cung điện vốn không có mấy, đi đi lại lại, lặng lẽ âm thầm, thông thường cả sáng chẳng nghe một tiếng nói.
Không còn những huyên náo phù phiếm, khắp trăm dặm đình đài lầu gác nguy nga tráng lệ cũng đượm đầy vẻ quạnh quẽ thê lương, ngàn dặm đào hoa rực rỡ chẳng làm sao che giấu nổi, có lẽ đây mới chính là diện mạo thật của Ngọc sơn.
Tây Lăng Hành chợt hiểu vì sao cứ ba mươi năm Vương Mẫu lại mở tiệc Bàn Đào một lần, bởi vì, bà quá đỗi tịch mịch! Dù người tham dự đều là những kẻ xa lạ nhưng dù sao cũng có thể mượn sự náo nhiệt của người ta để xua tan đi nỗi cô tịch của mình.
Nghĩ tới việc còn phải ở lại Ngọc sơn một trăm hai mươi năm, tức là mấy vạn ngày đêm nữa, kẻ luôn vô tư hồn nhiên như nàng cũng bắt đầu rầu rĩ.
Có lẽ Xi Vưu cũng hiểu được nỗi cô đơn của nàng nên phái người hầu đưa tới một chú tệ tệ[1] gầy ốm, nghe nói mẹ nó đã chết trong lúc bảo vệ địa bàn của mình, trước khi chết còn chưa sinh nở, để tệ tệ con được sống, tệ tệ mẹ đã gắng chút sức tàn lấy móng vuốt tự rạch bụng, moi đứa con chưa đủ ngày đủ tháng ra, vừa may được Xi Vưu cứu giúp, nhưng một con non như vậy làm sao sống nổi đây?
[1] Sơn Hải kinh – Đông sơn kinh: “Núi Cô Phùng có loài thứ hình dạng như cáo, có cánh, tiếng kêu như hồng nhạn, tên gọi tệ tệ. Tệ tệ thuộc giống hồ ly, tuy có cánh nhưng rất yếu ớt, khó mà bay lên được.”
Tây Lăng Hành ôm chú tệ tệ nhỏ đang thoi thóp tới cho Vương Mẫu xem thử, Vương Mẫu hờ hững nói: “Hồ tộc đỏng đảnh khó nuôi lắm, không sống nổi đâu.”
Chú tệ tệ nhỏ còn chưa mở nổi mắt nhưng khi Tây Lăng Hành lấy tay cù cù, nó liền ngậm ngón tay nàng mút chùn chụt, như đang bày tỏ khát khao ham sống.
Tây Lăng Hành lấy đào tiên và ngọc tủy mà người trong thiên hạ ước ao ra cho tệ tệ nhỏ ăn, chẳng ngại lãng phí, nàng thầm nghĩ nó đã không sống được lâu thì cứ ăn uống cho no nê đi.
Vương Mẫu cũng mặc nàng tùy ý, chỉ đứng bên thờ ơ quan sát.
Đào tiên và ngọc tủy đều do linh khí đất trời hội tụ lại mà thành, nhưng chính vì linh khí quá dồi dào nên nếu không hấp thụ nổi thì chỉ còn đường chết. Quả nhiên chỉ lát sau, chú tệ tệ nhỏ đã dựng hết lông lên, thân mình càng lúc càng phình ra hệt như một quả bóng da, tưởng chừng sắp nổ tung đến nơi, cặp mắt đỏ rực lên vì đau đớn, nó quằn quại vật vã.
Tây Lăng Hành luống cuống vỗ về tệ tệ nhưng nó hết cào lại cắn khiến tay nàng rướm máu. Vô tình mút được chút máu Tây Lăng Hành, tệ tệ nhỏ thấy cơn đau dịu dần bèn cắn chặt lấy tay nàng, ra sức hút máu. Tây Lăng Hành cũng mặc cho nó hút, chẳng hề ghìm giữ linh lực lại, dần dà, thân hình chú tệ tệ nhỏ khôi phục nguyên dạng, nó thỏa mãn cọ cọ vào nàng rồi thiếp đi.
Chữa xằng chữa bậy lại giữ được mạng, đúng là kẻ ngốc có phúc của kẻ ngốc! Vương Mẫu lắc đầu quay người bỏ đi.
Cứ như vậy, hàng ngày Tây Lăng Hành đều nuôi tệ tệ bằng đào tiên và ngọc tủy, hễ người nó trướng lên thì lại cho hút máu mình. Ngày lại ngày qua, chú tệ tệ thập tử nhất sinh đã bắt đầu chạy nhảy tung tăng, lông đen tuyền, đôi cánh bên sườn cũng cứng cáp hẳn lên.
Tới chừng hơn một tuổi nó đã lớn bằng con mèo, Tây Lăng Hành đặt tên cho nó là A Tệ.
Một hôm trong lúc đùa giỡn Tây Lăng Hành đặt A Tệ lên cành đào rồi len lén chuồn đi, A Tệ kêu lên mấy tiếng thảm thương chấp chới đập cánh bay đuổi theo nàng.
Loài tệ tệ tuy có cánh nhưng hai cánh rất yếu, khó mà bay lên được, ấy thế mà A Tệ được nuôi bằng đào tiên và ngọc tủy lại có thể bay!
Tây Lăng Hành kinh ngạc cười khanh khách, lập tức dắt A Tệ đi khắp nơi tập bay, khiến cả rừng đào cũng xao xác cả lên.
Thấy A Tệ tập bay, các cung nữ đồng loạt kéo tới xem, tuy A Tệ còn non nhưng có lẽ Hồ tộc trời sinh đã diễm lệ hơn người, ai thấy cũng yêu, bọn họ kinh ngạc gọi yêu nó là “Phi Thiên tiểu hồ ly”, Vương Mẫu ngẫu nhiên nghe được cũng dừng lại, ngạc nhiên quan sát nó.
Tây Lăng Hành làm mặt hề với Vương Mẫu, cười đắc ý ra vẻ chế nhạo Vương Mẫu cũng có lúc sai, A Tệ chẳng những sống được, mà còn sống khỏe nữa kia.
Tây Lăng Hành bị giam trong núi sâu chỉ có mình A Tệ làm bạn nên ngày ngày đều mong nhận được thư.
Đại ca Thanh Dương bận bịu công việc, đừng nói tới thư từ, đến một câu hỏi thăm cũng chẳng có. Tứ ca Xương Ý tuy quan tâm nàng nhưng chủ yếu là đưa đồ ăn đồ chơi tới chứ không viết thư. Chỉ riêng Xi Vưu cứ gửi thư tới tấp, thường một tháng phải đến mấy lá, từ chuyện lớn như quang cảnh các nơi tới chuyện vụn vặt như món hắn ăn, chuyện cười hắn nghe được đều viết cả vào thư, lá dài lá ngắn, dài thì cả trăm chữ, ngắn thì chỉ cụt lủn một câu: Hoa quỳnh trên bàn đã nở, sắc trắng, thơm ngát.”
Thỉnh thoảng Xi Vưu còn làm nàng bất ngờ. Xi Vưu kể rằng trên sông Hán Thủy xuất hiện yêu quái ăn thịt người, hắn tình nguyện xin đi thu phục yêu quái, tuy giết được nó nhưng cũng bị thương nhẹ, hắn đã lấy răng nó làm chuông gió tặng cho nàng.
Tây Lăng Hành hành treo chuông gió dưới mái hiên, mỗi khi gió thổi, nghe tiếng chuông leng keng, tâm trí nàng lại hiện lên một cảnh tượng vô cùng sống động: giữa biển sóng cuồn cuộn ngất trời, Xi Vưu giao đấu cùng thủy quái, cánh tay bị thương, máu nhuộm đỏ cả dòng Hán Thủy nhưng khóe môi vẫn thấp thoáng nét cười thản nhiên mà ngạo nghễ.
Dần dà Tây Lăng Hành bắt đầu dựa dẫm vào những bức thư của Xi Vưu, dù chỉ một câu ngắn ngủi của hắn cũng mang đầy sức sống và vẻ đẹp của trời đất ngoài kia, trong khi thư phúc đáp của nàng bức nào bức nấy toàn là nàng và A Tệ làm những việc này, nàng và A Tệ làm những việc kia.
Thỉnh thoảng Tây Lăng Hành chợt nghĩ nếu đồng thời xem tất cả các bức thư nàng gửi tới, chắc hẳn Xi Vưu sẽ tức chết mất, có điều nàng viết rất dí dỏm, Xi Vưu cũng chưa từng vì bực bội mà chấm dứt thư từ với nàng.
Đôi bên thư đi tin lại liên tiếp, tuy Vương Mẫu chẳng lấy làm phiền về việc Thanh Điểu[2] mỗi lần lên núi đều chuyển thư giùm A Hành nhưng Xi Vưu thấy không tiện, bèn nhắn nàng rằng đã tìm được một chú chim tuyệt vời để đưa thư.
[2] Theo Sơn Hải kinh – Hải Nội Bắc kinh: “Tây Vương Mẫu lưng tựa kỷ, đầu cài hoa ngọc, phía Nam có ba con Thanh điểu, đưa cơm cho Tây Vương Mẫu.” Theo Sơn Hải kinh – Đại Hoang Tây kinh: “Ba con Thanh điểu đầu đỏ mắt đen, một con tên Đại Thu, một con tên Tiểu Thu, con còn lại tên là Thanh Điểu.”
Mấy tháng sau, một con Lang điểu[3] bị trói gô lại được gửi lên Ngọc sơn.
[3] Sơn Hải kinh: “Lang điểu là loài chim lành, toàn thân trắng muốt.”
Tây Lăng Hành mở thư ra xem ngay trước mặt nó, trong thư Xi Vưu nói theo lệnh Viêm Đế, hắn phải tới vùng rừng rậm ở Tây Nam, nơi chưa một quan viên Thần tộc nào đặt chân đến, cũng chẳng biết phải đi mất bao lâu, vốn định thuần phục con chim này rồi mới gửi cho nàng nhưng bây giờ không thể đem theo nó cùng đi được, đành gửi luôn vậy.
Đọc xong, Tây Lăng Hành nghiêng đầu ngắm nghía chú chim, thật không tưởng tượng nổi, dựa vào khả năng của mình mà Xi Vưu lại không thuần phục nổi một con chim.
Giống Lang điểu toàn thân trắng muốt, hai mắt xanh biếc, vì dáng vẻ đẹp đẽ, tính tình hiền hòa nên thường được các thiếu nữ Thần tộc nuôi trong khuê phòng, có điều con Lang điểu này trông vô cùng ngạo nghễ, chỉ ngẩng đầu nhìn trời, chẳng buồn liếc Tây Lăng Hành đến nửa con mắt.
Tây Lăng Hành cho nó ăn, nó cũng rất hiền hòa, ngoan ngoãn chén sạch hai chú cá ngũ sắc khiến nàng mừng rỡ nhủ thầm: đâu có khó thuần gì! Nào ngờ lúc ăn tới con cá thứ ba, Lang điểu bất thình lình mổ phập vào tay nàng, còn rứt luôn một miếng thịt.
Thấy tay nàng chảy máu ròng ròng, Lang điểu đắc ý hót vang, tiếng hót rất chói tai nhưng chim chóc quanh đó đều nghe tiếng mà đến, sợ sệt đậu đầy cành.
Nghe tiếng nó hót, Vương Mẫu kinh ngạc bước ra, quan sát kỹ một hồi rồi nói: “Hình như con Lang điểu này có lai lịch.”
Tây Lăng Hành khiêm nhường thỉnh giáo, Vương Mẫu bèn giảng giải: “Tiếng hót Lang điểu vốn rất trong trẻo êm tai, nhưng con Lang điểu này hót chói tai như thế là bởi nó không coi mình là Lang điểu mà lại vọng tưởng muốn có giọng hót thánh thót như phượng hoàng. Phượng hoàng năm trăm năm mới sinh một quả trứng, chẳng hiểu sao một quả trứng Lang điểu lại lẫn vào ổ phượng hoàng, cơ duyên xảo hợp, trứng phượng hoàng bỗng biến mất, phượng hoàng tưởng lầm trứng Lang điểu là của mình, liền ấp nở, còn nuôi nó lớn, con Lang điểu này cũng ráng tập theo tiếng kêu thánh thót của phượng hoàng nên mới thành ra thế này.” Vương Mẫu lại nhìn những chú chim muốn bay mà không dám bay trên cành, cười nói: “Nếu là phượng hoàng thật, hẳn giọng hót đã thánh thót như tiếng đàn, muôn chim triều bái, hoan hỷ phục tùng chứ đâu như thế này.”
Đám cung nữ đều bưng miệng cười chế nhạo, chỉ riêng Tây Lăng Hành động lòng thương cảm, bèn xách nó lên. Con Lang điểu này đã như vậy, Lang điểu thật không dám lại gần nó, mà phượng hoàng cũng chẳng thèm coi nó là đồng loại, thật ra, nó cũng đâu muốn làm phượng hoàng?
Nàng nói với nó: “Mày đấu được với Xi Vưu, hiển nhiên không phải thứ chim chóc tầm thường, ta chẳng tâm sức đâu mà thuần hóa mày, nhưng Xi Vưu đã mất công bắt mày tặng cho ta, ta cũng không thể trái ý hắn, thả mày đi được. Mày cứ tạm lưu lại Ngọc sơn truyền tin giúp ta, đợi chừng nào ta xuống núi thì tùy mày muốn ở hay đi cũng được. Nếu đồng ý, ta sẽ thả mày ra, nếu không nhận lời ta sẽ trói mày một trăm năm luôn.”
Đáp lại đề nghị của nàng, Lang điểu há mỏ khạc ra một đám lửa.
Vương Mẫu lắc đầu than thở, thật đáng thương cho lòng kẻ làm cha làm mẹ trên đời, có lẽ đôi phượng hoàng kia đến chết vẫn không hiểu sao đứa con nở ra lại chẳng giống mình, để giúp đỡ nó, chúng đã chẳng tiếc hy sinh bản thân, cho Lang điểu ăn cả nội đan tu luyện trăm năm của mình.
Tây Lăng Hành tránh khỏi ngọn lửa, cũng chẳng lấy thế làm điều, chỉ quay sang bảo A Tệ: “Chúng ta đi.”
Vương Mẫu đưa mắt nhìn đám thị nữ xung quanh, họ lập tức cúi đầu tản đi.
Lang điểu quen thói tự do, dù đã bị Xi Vưu bắt vẫn ngày ngày kháng cự hắn, lúc nào cũng căng thẳng kích động quá mức. Vậy mà bây giờ nó lại bị trói buộc trong một xó hẹp, chẳng ai buồn ngó ngàng, hằng ngày Tây Lăng Hành chỉ tới một lần, quăng đồ ăn vào rồi đi, bất kể nó khiêu khích ra sao nàng vẫn dửng dưng.
Thoạt đầu Lang điểu còn kêu loạn lên, dần dà chẳng hơi sức đâu mà kêu nữa, ngày ngày chỉ ngẩn ngơ nhìn cảnh vật trơ trơ trước mắt.
Mây sớm bay lên, ráng chiều buông xuống.
Tít tắp sâu trong rừng đào thường vẳng ra tiếng kêu vui vẻ của tệ tệ.
Thỉnh thoảng, tệ tệ sải cánh bay ngang qua đầu Lang điểu, để lại một vệt bóng, thực tình thấy tệ tệ bay chấp chới, Lang điểu chẳng xem ra gì, nhưng khi bóng tệ tệ đã khuất nó lại ngẩng đầu nhìn ngây dại bầu không trống trải.
Cứ thế hơn trăm ngày, một hôm Tây Lăng Hành để đồ ăn xuống rồi dợm bước định đi, Lang điểu chợt há mỏ ngậm vạt áo nàng níu lại.
Tây Lăng Hành ngoái đầu hỏi nó, “Mày đồng ý rồi ư?”
Nó ngẩng đầu lên, không đáp.
Tây Lăng Hành cũng chẳng chấp tính ngang ngạnh của nó, chỉ mỉm cười nói: “Tuy mày hung hăng nhưng tính tình cao ngạo, đương nhiên chẳng thèm hứa hão rồi.” Dứt lời, nàng phất tay cởi trói cho nó. “Khi nào có việc tao sẽ tìm mày, còn hàng ngày nếu không muốn gặp tao, mày cứ tùy ý bay lượn, miễn đừng ra khỏi phạm vi Ngọc sơn.”
Nó sắp vỗ cánh bay đi, lại nghe Tây Lăng Hành nói: “Mày không phải Lang điểu, cũng chẳng phải phượng hoàng, mày chỉ là mày thôi, trong thiên hạ này, mày là độc nhất vô nhị, tao tạm gọi mày là Liệt Dương[4] nhé, nếu sau này mày có cơ duyên tu thành người, có thể tùy ý đổi tên khác vậy.”
Liệt Dương đứng ngây ra như đang ngẫm ngợi lời nàng, Tây Lăng Hành liền cầm lấy một cành đào, viết lên mặt đất hai chữ: “Liệt Dương”.
Lang điểu chăm chắm nhìn hai chữ “Liệt Dương” trên mặt đất hồi lâu rồi vỗ cánh bay đi.
Tây Lăng Hành khẽ thở dài, lắc đầu than cùng A Tệ, “Nó quật cường ghê, loài chim vốn ưa bay nhảy tự do, vậy mà vẫn kiên nhẫn được hơn một trăm ngày! Thiếu chút nữa ta đã mềm lòng, định viết thư cho Xi Vưu, xin hắn đồng ý để ta thả nó ra rồi.”
A Tệ nhếch mép cười, ánh mắt lấp lánh niềm vui.
A Tệ là hồ ly, giống vật thông minh nhất trong muông thú, lại lớn lên giữa Ngọc sơn tràn trề linh khí, ăn đào tiên, uống ngọc tủy, được Tây Lăng Hành rèn giũa, tuy chẳng thể nói tiếng người nhưng cũng lanh lợi không kém một đứa trẻ.
Tây Lăng Hành hớn hở chạy về phòng, “Ta phải viết thư cho Xi Vưu, nếu hắn thấy Liệt Dương đưa thư tới hắn sẽ giật nảy mình, tò mò không biết tại sao ta lại thuần phục được nó nhanh thế cho xem. Mày nói ta có nên kể cho hắn chuyện ta cam kết với Liệt Dương không? Hay là đừng kể vội, cứ để hắn tò mò nhé!”
Liệt Dương quả rất giữ lời, nghe tiếng Tây Lăng Hành gọi, nó liền bay tới ngay.
Gửi gắm bức thư cho Liệt Dương xong, nàng còn quàng vào cổ nó một ống trúc đựng đầy ngọc tủy đã chuẩn bị trước, khiến nó tưởng đó là quà cáp mà nàng sai nó chuyển, nào ngờ, Tây Lăng Hành dặn dò: “Cái này để mày uống, khỏi phải ăn những thứ linh tinh, mày bay nhanh, chắc một ngày thì tới nơi, Xi Vưu nhận thư sẽ cởi nó ra hộ mày.”
Liệt Dương vỗ cánh lặng lẽ bay ra ngoài cửa sổ. Quả nhiên nó bay nhanh như chớp, thoáng cái đã mất hút, chỉ còn chiếc chuông gió dưới hiên nhà khẽ ngân những tiếng tinh tang.
Tây Lăng Hành ngồi vào bàn, chống cằm ngắm chuông gió, hai má ửng hồng.
Trên Ngọc sơn này, năm năm tháng tháng hoa như cũ, tháng tháng năm năm thần tiên vẫn hệt xưa, nhưng dưới Ngọc sơn kia xuân qua thu đến, thu hết xuân về, ba mươi năm đằng đẵng, lại đã đến tiệc Bàn Đào.
Để chuẩn bị cho tiệc Bàn Đào, Vương Mẫu đã chế ra rất nhiều cung nữ gỗ phục vụ, trong cung chợt náo nhiệt hẳn lên.
Tây Lăng Hành thấy hay hay cũng bắt chước học làm gỗ. Vương Mẫu dạy nàng rằng trước tiên phải nhỏ máu tươi trong tim vào để người gỗ có sinh khí, rồi mới dùng linh lực điều khiển chúng làm việc. Làm người gỗ không khó, cái khó là điều khiển chúng, đừng nói tới máu tươi trong tim nối liền với huyết mạch của mình, mà linh lực cần thiết cũng quá lớn, thần tiên bình thường khó mà chịu đựng nổi. Kể cả Vương Mẫu nếu chẳng có Ngọc sơn dồi dào linh khí, nếu không phải những người gỗ đó theo hầu hạ bên mình thì bà cũng chẳng điều khiển nổi nhiều người gỗ như thế.
Vương Mẫu trêu Tây Lăng Hành: “Sắp tới được gặp mặt rồi, khỏi phải viết thư nữa, thích quá nhỉ?”
Tây Lăng Hành ngẩn người, như mừng như tủi, cúi gằm mặt xuống.
Vương Mẫu lắc đầu cười.
Đột nhiên Tây Lăng Hành ngẩng lên hỏi: “Vương Mẫu trước kia đâu có tổ chức tiệc Bàn Đào, từ khi Người làm Vương Mẫu mới đặt ra quy củ, cứ ba mươi năm bày tiệc Bàn Đào một lần, hao tổn rất nhiều tâm sức, chẳng rõ vị thần tiên hay yêu quái mà Người muốn gặp đã tới chưa?”
Vương Mẫu bỗng biến sắc, người gỗ đang làm dở trên tay rơi xuống đất, cung nữ bưng trà trong phòng vỡ tan thành tro bụi.
“Đừng tưởng ta ăn nói tử tế với ngươi, ngươi lại quên khuấy đây là đâu nhé, coi chừng ta giam ngươi thêm một trăm hai mươi năm nữa đấy!”
Nói rồi Vương Mẫu đùng đùng tức giận giũ áo đi thẳng, đám cung nữ cũng nín thinh, chỉ mình Tây Lăng Hành ngoảnh sang cười vụng với A Tệ: “Sao ta lại thấy thinh thích lão yêu bà này nhỉ?”
Tiệc Bàn Đào khai mạc, anh hùng các nơi theo thường lệ đều tụ họp đông đủ.
Thấy sứ giả lần này của tộc Hiên Viên là Tứ ca Xương Ý, Tây Lăng Hành rất vui, theo lý lần trước Xương Ý đã tới rồi, lần này không được đi nữa, nhất định là vì nàng nên Tứ ca mới cố nài nỉ phụ vương tranh thủ đến Ngọc sơn.
Tiếc rằng cả tộc Thần Nông chỉ cử mình Cộng Công tới dự yến.
Cộng Công nhận tội với Vương Mẫu, “Nhị vương cơ bệnh nặng qua đời, Viêm Đế đau buồn quá độ mà thành bệnh, các quan lại chức dịch trong tộc đều không dám rời Viêm Đế nên chỉ có mình vãn bối tới dự yến.”
Vương Mẫu đưa Cộng Công một giỏ đào tiên, sai hắn mang về cho Viêm Đế, “Giúp ta chuyển lời chia buồn với Viêm Đế, khuyên ngài cố nén đau thương.”
Cộng Công thi lễ rồi cung kính lui ra, Vương Mẫu đứng bên vách núi đăm đắm nhìn biển mây mờ mịt, dáng vẻ cô độc mà bi thương khôn xiết, cứ đứng như vậy cả ngày, chẳng cung nữ nào dám lại quấy nhiễu.
Tây Lăng Hành bước tới đứng sau lưng Vương Mẫu.
Vương Mẫu bèn đưa cho nàng một chiếc hộp gỗ: “Thanh Điểu vừa mang từ dưới núi lên đó, xem ra tuy Xi Vưu chưa tới nhưng lễ vật đã tới trước rồi.”
Tây Lăng Hành mở hộp ra, thấy bên trong là hai con phượng hoàng được đẽo bằng gỗ.
Thoạt đầu, nàng ngỡ ngàng chẳng hiểu gì cả, sau mới sực nghĩ ra, liền đặt cả hai xuống đất.
Hai con phượng hoàng vừa bén hơi đất lập tức lớn nhanh như thổi, hóa thành hai con phượng hoàng y như thật, bộ lông ngũ sắc rực rỡ, tiếng kêu thánh thót, bay lượn xung quanh.
Phượng hoàng là vua của muôn chim, thân phận cao quý, tính tình kiêu ngạo, nhưng hai chú phượng hoàng này lại rất thân thiết với Tây Lăng Hành, lúc bay ra xa múa lượn cho nàng ngắm, lúc liệng lại gần vờn quanh mình nàng. Giọng hót phượng hoàng thánh thót du dương tựa tiếng đàn, chúng vừa hót vừa bay lượn, khiến chẳng những Tây Lăng Hành mà cả Vương Mẫu cũng phải mỉm cười.
Chừng nửa tuần hương, linh lực để duy trì đã cạn kiệt, đôi phượng hoàng mới thôi múa lượn, khép cánh đỗ xuống, lại biến thành hai con chim gỗ.
Thấy Vương Mẫu ngây ra nhìn hai chú chim gỗ đến ngơ ngẩn, Tây Lăng Hành vội hỏi: “Sao thế ạ?”
Vương Mẫu thờ ơ: “Bạn của ngươi sai khiến được tượng gỗ từ ngoài ngàn dặm, còn khiến chúng cất tiếng hót, đúng là không vừa.” Thật ra, điều khiến Vương Mẫu cảm thán chính là, nhiều kẻ có thể vì quyền lợi mà bất chấp mọi giá, sai khiến rối gỗ từ xa để chúng giết người lấy đồ cho mình, còn Xi Vưu lại chẳng tiếc hao tổn tâm huyết chỉ để làm vui cho Tây Lăng Hành.
Tuy hai con chim gỗ đã thành ra vô dụng, Tây Lăng Hành vẫn tươi cười cất chúng đi.
Tiệc Bàn Đào dài ba ngày trôi qua rất mau.
Ba mươi năm nay, Tây Lăng Hành đã ăn chán đào tiên nên cũng chẳng còn gì hứng thú với tiệc Bàn Đào, thế mà khi tiệc tàn, nàng lại thấy lòng buồn vô cớ, có lẽ là bởi Xương Ý ca ca sắp phải đi.
Tây Lăng Hành quyến luyến tiễn Tứ ca xuống núi rồi một mình đi sâu vào giữa rừng đào, chẳng buồn mang A Tệ theo. Vậy mà chẳng hiểu sao Vương Mẫu vẫn tìm thấy nàng, còn hỏi: “Ngươi nhớ nhà ư?”
Tây Lăng Hành đã băn khoăn vì một câu nói của Vương Mẫu từ rất lâu. Hôm đó khi trừng phạt nàng, Vương Mẫu từng nói: “Nể mặt mẫu hậu ngươi, ta sẽ giữ thanh danh cho ngươi, không công bố tội trộm cắp ra ngoài, chỉ phạt ngươi chăm sóc vườn đào cho ta một trăm hai mươi năm.” Tây Lăng Hành chỉ nghe người ta nể mặt phụ vương oai trấn bốn bể của mình, lần đầu mới thấy có người “nể mặt mẫu hậu ngươi”, hơn nữa người đó lại là Ngọc sơn Vương Mẫu, nên nàng rất tò mò.
Tây Lăng Hành đánh liều hỏi Vương Mẫu: “Người quen mẫu hậu tôi sao?”
“Rất nhiều rất nhiều năm trước, chúng ta từng là đôi bạn khăng khít.”
“Thật ư?” Tây Lăng Hành bị bất ngờ, bán tín bán nghi.
“Giờ đây nhắc tới phụ vương ngươi thì thiên hạ ai ai cũng biết, nhưng khi còn chưa ai biết tới ông ta, mẫu hậu ngươi đã vang danh khắp chốn, người người đều biết nhà Tây Lăng có nàng kỳ nữ. Viêm Đế, Tuấn Đế đều phái sứ giả tới cầu thân cho con trai, nếu mẫu hậu ngươi nhận lời, có lẽ bây giờ ngươi đã là vương cơ của Thần Nông hay Cao Tân rồi.”
Tây Lăng Hành kinh ngạc đến không dám tin: “Vậy năm xưa mẫu hậu tôi thế nào? Còn phụ vương thì sao?”
Vương Mẫu lim dim mắt như đang hồi tưởng lại: “Mẫu hậu ngươi là người con gái thông tuệ dũng cảm nhất mà ta từng thấy, còn phụ vương ngươi cũng là gã thanh niên anh tuấn hào sảng nhất mà ta đã gặp qua, năm đó…” Vương Mẫu ngừng lại ngang chừng, hồi lâu không nói tiếp. Ánh dương xuyên qua những cánh đào rực rỡ, rải xuống đất thành những bụi vàng lắc rắc. Gió lay bóng động, tựa như dằng dặc thiếu hoa trôi ngang dung nhan Vương Mẫu, toát lên một nỗi bi ai mà A Hành cũng không sao hiểu nổi.
“Sao mẫu hậu tôi chưa từng nhắc tới Người nhỉ?”
Vương Mẫu mỉm cười, xua tan bóng dáng tháng năm vừa lướt qua gương mặt, “Bởi chúng ta đã không còn là bạn bè nữa.”
“Người không gặp phụ mẫu tôi bao lâu rồi?”
“Hơn hai ngàn năm nay rồi, từ khi cai quản Ngọc sơn, ta chưa hề xuống núi, họ cũng chưa từng tới đây.”
Tây Lăng Hành nhìn quanh, chẳng nói nên lời. Hai ngàn năm, ngày lại ngày, năm lại năm, Vương Mẫu cứ một mình coi sóc cả rừng đào rực rỡ thắm tươi thế này ư?
Tây Lăng Hành nghiêng đầu nghĩ ngợi rồi đáp: “Khỏe lắm, mẫu hậu tôi ưa yên tĩnh, chẳng xuống núi, cũng hiếm khi tiếp khách.”
Dù được ăn đào tiên, người trong Thần tộc cũng chẳng thể trường sinh bất tử, có điều ăn thường xuyên sẽ giữ được dung nhan trẻ trung mãi mãi, nên dung mạo Vương Mẫu vẫn y như thiếu nữ vừa đôi tám. Tây Lăng Hành nhìn Vương Mẫu, buột miệng: “Mẫu hậu tôi tóc đã bạc trắng cả rồi.”
Tây Lăng Hành đã hiểu ý Vương Mẫu muốn hỏi gì, liền đáp, “Mẹ tôi ưa yên tĩnh nên cha cũng hiếm khi quấy rầy bà.”
Vương Mẫu và Tây Lăng Hành nhìn nhau im lặng. Vương Mẫu không thể xuống núi vì giữ quy củ Ngọc sơn, nhưng còn mẹ nàng? Cớ gì bà phải tự giam mình?
Đột nhiên, Vương Mẫu muốn uống một trận say khướt bèn quát gọi thị nữ, sai họ đi lấy rượu.
Vương Mẫu đã say rồi, mấy ngàn năm nay mà mới được một trận thật say.
Tây Lăng Hành nhìn Vương Mẫu phất tay áo, phấp phới múa giữa rừng đào bát ngát.
Vương Mẫu mỉm cười, nhìn nàng, khẽ gọi: “A Luy, lại đây, A Luy, lại đây mau lên…”
Lần đầu tiên Tây Lăng Hành biết mẹ mình từng được bạn bè gọi thân mật là “A Luy”. Nàng đành đứng dậy múa cùng Vương Mẫu, nhưng không sao đáp lại lời bà. Rất nhiều rất nhiều năm trước, hẳn Vương Mẫu cũng có một cái tên rất dịu dàng, chỉ là đã lâu lắm chẳng ai gọi tới nên mọi người đều không biết. Tây Lăng Hành không muốn gọi bà là Vương Mẫu, ít nhất là hiện giờ, nên đành làm thinh mà múa cùng bà.
Tiệc Bàn Đào đã tàn, Ngọc sơn trở lại vẻ quạnh quẽ hoang lương, tĩnh lặng như chết trước kia.
Hôm nay cũng giống hôm qua, từng ngày từng ngày đều đều trôi đi. Cỏ cây không đổi, cảnh sắc chẳng thay, bốn mùa đều là xuân nên ấm lạnh vẫn như thế, chẳng có gì biến chuyển.
Ba mươi năm trước, Tây Lăng Hành còn nhỏ, ít trải sự đời, chưa thấm thía nỗi khổ bị mất tự do nên không biết sợ, đương nhiên cũng chẳng mấy khổ đau, nhưng mới trải qua ba mươi năm, nghĩ tới còn ba lần mươi năm nữa, nàng chợt thấy tháng ngày trước mắt sao mà đằng đẵng lê thê, vì sợ hãi, nỗi đau khổ của nàng lại càng tăng thêm.
Ngọc sơn cách biệt thế gian nên Tây Lăng Hành cũng bị cách biệt với thế giới. Nàng thường nghĩ, có lẽ tới khi xuống núi nàng lại nhận ra mình đã chẳng biết nói gì với bạn bè nữa. Những gì họ biết, nàng nào có biết đâu.
Dẫu là Thần tộc thì một đời có được mấy mùa thanh xuân một trăm hai mươi năm?
Thư nàng gửi cho Xi Vưu cứ ngắn dần ngắn dần, ít dần ít dần, rồi cuối cùng ngừng hẳn.
Nhưng Xi Vưu vẫn gửi thư đều đặn như thường, thậm chí cũng chẳng truy vấn tại sao Tây Lăng Hành không trả lời, hắn chỉ bình thản thuật lại cuộc sống của mình, thỉnh thoảng kèm theo một món quà nho nhỏ.
Dù không hồi âm, nhưng mỗi khi nhận được thư hắn, Tây Lăng Hành cũng thấy vui lên.
Hơn ba năm, một ngàn mấy trăm ngày Tây Lăng Hành chẳng viết cho hắn lấy nửa chữ, nhưng hắn vẫn đều đặn viết thư cho nàng như xưa.
Sau bốn năm, cảnh sắc trên Ngọc sơn vẫn trơ trơ không đổi như suốt ngàn năm qua, nhưng dưới núi, một mùa đông rét buốt căm căm lại vừa qua, tất cả đang chờ đón một mùa xuân ấm áp.
Đương lúc Tây Lăng Hành đứng giữa rừng đào nheo mắt ngắm vầng dương, Thanh Điểu lại mang thư của Xi Vưu tới.
Thư viết rất dài, hết lải nhải kể mấy chuyện đất lề quê thói, rồi dịu dàng tự thuật đôi ba câu chuyện, có điều, một câu xem chừng rất bình thường trong đó lại khiến mắt nàng cay cay.
“Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực cả hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.”
Một chữ “lại” vô tình viết ra mà khiến Tây Lăng Hành trằn trọc suốt cả đêm.
Sớm hôm sau, Liệt Dương mang thư của nàng từ Ngọc sơn bay đi.
Mấy chục năm sống bên nhau, A Tệ cùng Liệt Dương đã thành ra thân thuộc. Tuy Liệt Dương tính khí lạ lùng, không dễ gần gũi nhưng A Tệ thích Liệt Dương, bất kể Liệt Dương đối xử ra sao nó vẫn cứ bám riết lấy, Liệt Dương bị bám mãi cũng hết cả cáu kỉnh, dần dà chấp nhận A Tệ.
Thường thường, trong khi Tây Lăng Hành vừa coi sóc vườn đào vừa chăm chút đám trứng tằm, A Tệ hay chơi đùa với Liệt Dương.
Mấy chục năm nay nàng đã nhận được rất nhiều quà của Xi Vưu, nhưng chẳng hề tặng lại món gì. Trên Ngọc sơn đầy rẫy ngọc quý, cây hiếm, báu vật, có điều hết thảy thuộc về Vương Mẫu chứ không thuộc về nàng.
Mẹ nàng thạo nuôi tằm dệt vải nên từ khi chưa biết nói, nàng đã biết phân biệt đủ các loại trứng tằm, bèn nảy ý định dựa vào linh khí trên Ngọc sơn để ươm một mẻ trứng có một không hai, dệt một tấm áo độc nhất vô nhị trên đời tặng Xi Vưu.
Trên Ngọc sơn không hề có cảm giác nhật nguyệt chuyển vần, hoa đào nở một lần là tươi suốt ngàn năm nên nàng chỉ có thể tính thời gian dựa vào những bức thư đi tin lại của Xi Vưu.
Hắn viết thư cho nàng, nàng viết thư cho hắn, hắn lại viết thư cho nàng, nàng lại viết thư cho hắn… bao nhiêu thời gian đằng đẵng đã trôi qua giữa những cánh thư đi thư lại.
Mười sáu năm ươm được trứng hoa đào, năm năm quay tơ, ba năm dệt vải, một năm may áo, mất hai mươi lăm năm nàng mới may xong một chiếc áo tặng Xi Vưu.
Áo vừa may xong, hồng quang đã tỏa rực khắp phòng, làm kinh động cả Ngọc sơn. Đám thị nữ ngỡ là có cháy liền chạy nháo nhào khắp nơi kêu cứu, Vương Mẫu vội vàng tới nơi, chỉ thấy một tấm áo đỏ thắm giản dị nhưng sắc đỏ tựa hồ có sức sống, như đang điên cuồng tràn ra, lại như đang hú hét lao vút đi, Vương Mẫu quan sát hồi lâu, cảm thấy như mình sắp bị sắc đỏ đó nhấn chìm.
Cả Vương Mẫu cũng mới lần đầu được thấy sắc đỏ như vậy, bà sững sờ nhìn ngắm hồi lâu rồi quay sang bảo Tây Lăng Hành: “Ngươi đúng là con gái của A Luy.”
Tây Lăng Hành sai Liệt Dương mang áo tới cho Xi Vưu, cũng chẳng giải thích tấm áo này từ đâu mà có, chỉ nói là quà tặng cho hắn, mong rằng hắn sẽ thích.