Sáng sớm hôm sau, tôi bước ra phố liền phát hiện thành Trường An có lệnh giới nghiêm. Giới nghiêm tức là tất cả cửa hàng cửa hiệu đều phải đóng cửa, mọi người không được ra khỏi nhà, không được phép ra vào thành, ai nấy phải ở yên một chỗ. Trên đường chỉ có quan binh và một số người có việc quan trọng đi lại. Tôi và Hỷ Lạc tì người lên cửa sổ nhìn ra ngoài. Hỷ Lạc hỏi tôi: Huynh đang nghĩ gì vậy?
Tôi nói: Nghĩ xem lát nữa đi lấy kiếm thế nào, có khi chúng ta bị lừa cũng nên.
Hỷ Lạc nói: Muội cảm thấy huynh đã khác trước rồi.
Tôi nói: Không thể nào. Chưa trải qua việc lớn nào thì làm sao đã khác trước được.
Hỷ Lạc nói: Huynh khác so với hồi ở trong chùa.
Tôi nói: Thực ra vẫn thế thôi.
Hỷ Lạc nói: Huynh vẫn đau đáu với thanh kiếm đó, dù sao kiếm cũng chỉ là một thứ ngoại vật thôi mà.
Tôi nói: Huynh cảm thấy, khác với lời đồn đại, chúng ta là những người như nhau thôi, có thanh kiếm đó bên mình, bản thân cảm thấy rất an toàn.
Hỷ Lạc nói: Thì ra huynh cũng cần cảm giác an toàn.
Tôi nói: Đúng thế, có thể nghĩ thế này, những người khác thực sự bạo dạn ra đường. Còn huynh thì luôn cảm thấy mình là người tốt, sư phụ thì suýt bảo huynh là chúa cứu thế, nhưng bản thân huynh hiểu rõ nhất chuyện gì đang xảy ra.
Hỷ Lạc nói: Vậy lúc nào thì chúng ta đi lấy kiếm?
Tôi nói: Ngay bây giờ.
Dọc đường suôn sẻ, không bị quan binh ngăn chặn, tới căn nhà ở ngã rẽ, chúng tôi đẩy cửa bước vào. Phát hiện trong nhà không một bóng người, tôi và Hỷ Lạc liền kiếm tìm khắp chỗ, vẫn không thấy còn lại một thứ gì. Trong lòng tôi bất chợt cảm thấy hẫng hụt. Tìm lại một lượt, phát hiện thanh kiếm ở đầu giường ông lão, trên kiếm có khắc một dòng chữ, tôi và Hỷ Lạc cũng lúc cảm thấy có lẽ dòng chữ đó đại loại sẽ là những câu kiểu như “giang hồ hiểm ác, thùy chủ phù trầm”, ai ngờ nhìn kỹ lại thì là: Ta đi một chuyến, gặp lại nhau sau.
Chúng tôi vừa ra khỏi cửa lập tức vướng phải phiền phức, chạm mặt ngay hai tên quan binh đang đi tuần đơn lẻ, trông thấy chúng tôi, họ đột nhiên thay đổi sắc mặt, đoạn tiến lên chất vấn: Ngươi có biết ra đường không được cầm kiếm không hả, giờ có lệnh giới nghiêm, còn không được phép dắt theo ngựa, con này tuy là con lừa, song cũng cùng một giống, ngươi phải đi cùng chúng ta một chuyến rồi.
Tôi nói rõ lý do tới đây, giống như lần ở cửa thành lúc trước. Song lần này lệnh giới nghiêm quả nhiên nghiêm ngặt, dẫu nài nỉ thế nào cũng vô dụng, tôi đành nói: Xin hai vị nương tay, chớ cản đường, tôi biết lần này tới đây ắt sẽ bị tù năm năm, song tôi quả có việc quan trọng.
Hai người đó cứ cố chấp không chịu khoan nhượng.
Tôi rút kiếm, tới mũi kiếm liền lập tức thu lại, hỏi: Đã thấy rõ chưa?
Hai người trợn tròn mắt nhìn, không hề phản ứng.
Tôi hỏi Hỷ Lạc, đồng thời nói: Đi thôi!
Hỷ Lạc nói: Nói cho rõ ràng thì hơn.
Tôi gắng lôi Hỷ Lạc đi, được mấy bước, tôi liền nói, muội quay lại xem.
Hỷ Lạc quay đầu lại, bất chợt cơ thể của hai kẻ kia bỗng đứt làm đôi, rơi xuống đất.
Hỷ Lạc nôn ọe tại chỗ, kinh ngạc nhìn tôi. Chúng tôi lẳng lặng quay về quán trọ.
Hỷ Lạc chất vấn: Sao huynh lại giết người hả?
Tôi nói: Nếu không sẽ rất rắc rối, muội cũng thấy đấy.
Hỷ Lạc nói: Nhưng huynh có thể đánh cho họ ngất.
Tôi nói: Vậy thì đến khi họ tỉnh dậy, chúng ta muốn chạy trốn cũng không thoát được.
Hỷ Lạc nói: Bất kể thế nào, sau khi cầm thanh kiếm này huynh cũng đã khác trước.
Tôi nói: Hỷ Lạc ơi, không phải vậy, giờ tình hình của ai cũng nguy hiểm cả, bên ngoài giới nghiêm, chắc chắn đã có chuyện lớn xảy ra, huynh đoán huynh đệ Thiếu Lâm ở các núi khác đã tập hợp lại báo thù rồi.
Hỷ Lạc tới trước quầy nghe ngóng, tên tiểu nhị nói, không biết đã xảy ra chuyện gì, chắc là có liên quan tới các bang phái. Trong dân gian quả có rất nhiều bang phái, các phải nhỏ thì nhiều vô kể, kết bè kết cánh cũng nhanh hơn sức tưởng tượng, ví như vụ thỏ và dưa hôm trước, trong chốc lát đã có hai bang phái. Phái nhỏ không nói làm gì, phái vừa có bảy tám bang, bốn năm giáo đoàn, do triều đình trước nay không cai quản, cho nên số người ngày một đông lên. Bang phái lớn hơn một chút có Thiếu Lâm và Võ Đang, một bên Phật giáo một bên Đạo giáo, sở dĩ trở thành bang phái lớn là bởi sau lưng có chỗ dựa tinh thần. Sự khác biệt ở Phật và Đạo là ở chỗ, bên Phật thì nếu anh đánh chết tôi tức là anh đã siêu độ cho tôi, còn bên Đạo, nếu anh đánh tôi không chết tôi sẽ siêu độ cho anh. Tuy nhiên trên thực tế chẳng có ai bằng lòng để người khác đánh chết, ai cũng muốn ở lại thế gian cực khổ, bởi thế gian vẫn có cảm giác quen thuộc hơn. Sự việc diễn biến đến cuối cùng, sự khác biệt không còn quá lớn, vả lại sau lưng đều có sự ủng hộ của triều đình. Ngoài ra, từ xưa đã có Cái bang, tức là một bang phái do bọn ăn xin hợp thành, đám ăn xin vốn dĩ rất đông, không cần tổ chức, trong khi trưởng lão của Cái bang tuy đức cao vọng trọng, song vẫn là một tên ăn mày, vậy nên triều đình thường mặc kệ. Bất kể là việc gì cũng đều không nên nghĩ nhiều, không cần thiết phải truy cứu sâu xa, bang phái này là bang phái ăn mày tập thể, nghĩ đến đó là được, mà cũng là chính xác nhất.
Tôi cảm thấy bên ngoài chắc chắn đã xảy ra rất nhiều việc, cần phải gấp rút ra khỏi thành. Song khi nghĩ đến việc đã ra khỏi thành, thường lại cảm thấy trong thành sẽ xảy ra nhiều việc, sẽ phải gấp rút quay trở lại. Hỷ Lạc nói: Hay chúng ta cứ đợi xem sao đã!
Trong khi chờ đợi, chúng tôi nghe được rất nhiều lời đồn đại, đầu tiên là việc ở Trục thành bắt đầu có cuộc quyết đấu, các bang phái cần suy tôn ra một minh chủ. Tiếp theo đó là việc sư phụ Huệ Cảnh ở chùa Thông Quảng lần trước bị thương nay đã bị ám sát. Ngoài ra còn có lời đồn rằng hành vi của Võ Đang đã xúc phạm tới trời, Quá Sa đã bị chôn vùi trong bão cát, vân vân. Lời đồn kỳ quái đến mức nào cũng có. Nghe nói có người đã bắt đầu tích trữ lương thực. Tôi và Hỷ Lạc vẫn quyết định rời thành là tốt hơn cả.
Cũng may, lệnh giới nghiêm trong thành đến trưa là kết thúc. Tôi và Hỷ Lạc đi ra cửa đằng Tây, phát hiện thấy có hai con đường, một đường tới Trục thành, một đường tới Tuyết Bang. Tuyết Bang là một thành trì nổi tiếng cách Trường An mấy trăm dặm về phía Bắc, vì gần tới biên giới nên rất nhiều bang phái lớn nhỏ đóng chốt ở đây, nghe nói Võ Đang gần đây cũng chuyển tới đó. Có thể đoán rằng nơi đó đã trở thành nơi ma quỷ tác oai tác quái. Bên cạnh Tuyết Bang là A Vệ Liêu, trước vốn không thuộc Trung Hoa, về sau chẳng biết thế nào lại sát nhập vào bản đồ mặc dù còn chưa động tới binh đao. Nay thì A Vệ Liêu là nơi trọng binh của triều đình đóng quân, ngoài Trường An. Đây là nơi chúng tôi chưa từng tới, còn Trục thành gần như không còn nghĩa lý gì nữa.
Vậy thì, tới A Vệ Liêu để làm gì? Tôi luôn cảm thấy sứ mệnh của mình là báo thù cho Thiếu Lâm, nhưng dường như mối thù đó tức khắc đã được báo trả, song có lẽ không đơn giản như vậy, tóm lại tôi thấy vẫn chưa đủ, cần phải làm tiếp.
Con Lép sau một thời gian cọ xát với thực tế, xét về phương diện tốc độ và độ bền bỉ, nó đều có những tiến bộ đáng kể, vả lại còn học được cách giao tiếp với con người, nó cứ chớp chớp mắt nhìn, với bộ dạng như thể sắp bị bắt nạt khiến Hỷ Lạc yêu nó vô cùng. Tôi nghĩ việc tôi giết một lúc hơn bốn mươi người ở Quá Sa chắc hẳn chưa được điều tra rõ ràng, hoặc giả triều đình có cách suy tính riêng, bằng không nhóm ba người chúng tôi một lừa một trai một gái chắc chắn đã bị tra hỏi cả vạn lần từ lâu rồi. Tôi nhớ lại vụ việc hai chiếc tiêu kỳ lạ phóng về phía chúng tôi lúc ăn cơm lần nọ, đã gây sát thương cho người khác, song đến giờ vẫn chưa rõ tình hình, vả lại quan binh dường như không suy xét việc này, gần đây triều đình như thể đang bận bịu xử lý một cơ số việc riêng, chỉ nghĩ đến thôi cũng đã thấy sợ.
Chúng tôi đi chầm chậm tới Tuyết Bang, nơi mỗi lúc một lạnh. Hỷ Lạc chỉ muốn di chuyển theo thời tiết, còn tôi thì chẳng có yêu cầu gì, dường như tôi lại thích di chuyển ngược lại, ví như mùa đông thì đi lên phía Bắc, mùa hạ lại rời xuống phương Nam là nơi không được coi trọng mấy, có lẽ bởi phía Nam giáp với biển cả, chắc không còn đất đai gì nữa, trong khi phía Bắc cương thổ tựa hồ vẫn rất bao la, không biết rốt cuộc xa xôi đến nhường nào, mười lăm năm trước triều đình từng có một tiểu đội định thăm dò bí mật của miền cực Bắc và khả năng mở rộng biên cương, hoàng thượng chờ đợi tin tức từ đoàn người ngựa đó, thế rồi mười lăm năm qua đi, họ vẫn chưa quay lại, việc ấy thực sự khiến người ta cảm thấy thần bí. Đi về phía Tây, với những mạch núi cắt ngang, đã tới tận cùng réo dắt, mọi người đều cho rằng đầu phía đó là ranh giới giáp với trời, bởi địa thế cao dần, cao đến mức không có đường thông tới, lại càng chẳng có ai đặt chân đến được, muôn ngọn núi ngăn trở, tựa hồ vô biên vô tận, vả lại khác với Trung nguyên nơi mỗi ngọn núi đều có thể ước tính được cao thấp, các ngọn núi ở đó đều có tuyết trắng ôm đỉnh, rất khó ngước trông, lại hết sức choáng ngợp, cho nên hẳn là giới hạn giữa trời và đất.
Song xét trên góc độ quân sự, không thể nào vì giới hạn giữa trời và đất mà coi như xong chuyện, nhất định phải thăm dò, cho dù là phân giới của trời đất, mọi người cũng đều rất muốn biết xem ở đầu đó rốt cuộc thế nào. Đoàn người ngựa ra đi mười lăm năm trước, có lẽ vì vậy mà vẫn chưa thể quay về. Điều đó chứng tỏ, mặt quân sự phía này về cơ bản có thể yên tâm, ngay đến người đi còn không thể quay lại, huống hồ là quân đội xâm lược. Vậy nên mối họa tiềm tàng chính là phương Bắc. Các thành trì ở phương Bắc nhìn chung đều có xu hướng to lớn, tường thành cũng cao, chú trọng vào tính dễ phòng thủ, khó tấn công. Song có một việc tôi vẫn chưa thể hiểu rõ được, vì sao nhất định cứ phải đánh hạ từng thành một, thảng như có đủ binh lực, đánh thẳng một mạch vào Trường An chẳng phải xong luôn sao? Trong khi phần lớn binh lính đều trấn giữ ở các thành trì khác.
Không biết có phải do tác dụng tâm lý hay không, dọc đường tôi cảm thấy mỗi lúc một lạnh. Hỷ Lạc nói, trời đã vào đầu đông rồi. Giang hồ thì chắc chắn không yên bình như trước nữa, bởi dọc đường đi của chúng tôi đều rất yên bình, điều đó có nghĩa là mọi người đều đang bận việc chính. Hỷ Lạc của tôi thì chẳng hiểu gì, bản thân tôi lại không có người bạn giang hồ nào cả, cho nên không thể dò la được tin tức, mọi việc đành gác lại chờ sau khi đến Tuyết Bang.
Mất mấy ngày mơ mơ màng màng, đi ngang qua rìa sa mạc, ngang qua núi thẳm gò hoang, ngang qua thôn làng hẻo lánh, ngang qua rừng sâu nước độc, ngang qua thị trấn xác xơ, ngang qua đình chùa xiêu đổ, song chẳng biết có phải đường tới Tuyết Bang hay không. Chúng tôi đã hỏi rất nhiều người đi đường, họ đều nói chỉ biết phương hướng đại khái, chưa từng đi tới Tuyết Bang, bởi võ công không đủ cao cường.
Hỷ Lạc hỏi tôi: Sao huynh không nghĩ tới việc đi tới các ngôi chùa khác nhỉ, ví dụ như chùa Huệ Tĩnh ở phương Nam, chùa Quảng An gần Trường An, toàn những ngôi chùa lớn cả.
Tôi nói: Huynh từng nghĩ rồi, nhưng tới đó làm gì chứ?
Hỷ Lạc nói: Cũng phải, huynh có thể nhờ họ giúp tìm các vị sư phụ, hoặc giả hỏi xem có biết tung tích phương trượng hay không.
Tôi nói: Ở chỗ họ, muội và huynh chỉ là đệ tử thôi, những việc này có hỏi cũng không rõ, huống hồ biết bố trí muội thế nào đây?
Hỷ Lạc nói: Vậy không tới đó nữa.
Tôi nói: Đúng, tới Tuyết Bang chắc sẽ biết thêm được rất nhiều việc.
Tuyết Bang.
Tôi rất lấy làm kinh ngạc khi chúng tôi lại đến được Tuyết Bang, hơn nữa tường thành ở Tuyết Bang còn cao chót vót, hơn thành Trường An rất nhiều. Bên ngoài tường thành chỗ cổng vào dán đầy những tờ cáo thị truy nã, phải đến hàng trăm tờ, Hỷ Lạc nói: Đi, ra xem có huynh không.
Tôi bước lên trước nhìn, thì ra những tờ giấy truy nã này trông tưởng loạn, nhưng trên thực tế rất có quy củ, kẻ phạm tội nặng nhất được dán ở trên cùng, đọc từ dưới lên, trang đầu tiên được viết thế này.
Đàn ông, không rõ danh tính, nguồn tin cho hay, y cao chừng sáu thước, diện mạo không rõ, mang theo một thanh loan đao cán lớn, trên đao có xâu một vòng sắt, trên vòng sắt trổ một đôi uyên ương, cán đao làm bằng gỗ, sắc gỗ đen, có một vết nứt, lưỡi đao có răng, tổng cộng một trăm linh năm răng, đao dài ba thước.
Vào giờ Tý tiết Thu phân, y tới thôn Nhị Man trêu cợt hai nữ tử (từ “hai” có một gạch chéo) Diêu Tú Hoa, mẹ Tú Hoa phát hiện, nói với bố Tú Hoa, bố Tú Hoa cầm cây gậy gỗ đuổi theo, y rút đao chém loạn, đoạn dân làng phát hiện, y liền cướp đường đào tẩu, đồng thời tiện tay cướp một con gà giống của nhà Tú Hoa, một con gà giống của nhà Diệu Tam Căn, hàng xóm của Tú Hoa, mối ẩn họa thậm lớn, mong những người biết tung tích báo quan.
Tôi và Hỷ Lạc đứng ngây ra đọc, nín lặng cười thầm. Về sau án này nghe đồn không tìm thấy người song lại tìm thấy thanh đao, bồi thường cho nhà Tú Hoa, song bởi Diêu Tam Căn cũng mất gà, nhà Tú Hoa được đao mà Diêu Tam Căn lại không được gì, cho nên không phục, định kiện lên quan. Sau đó quan phán cho Diêu Tam Căn được sở hữu vỏ đao, Diêu Tam Căn vẫn không phục, cảm thấy hai nhà đều mất gà như nhau, vì sao nhà Tú Hoa được đao còn nhà tôi chỉ được vỏ, ai ngờ quan mắng ngay tại chỗ, rằng khuê nữ nhà ngươi chưa bị sờ soạng, khoản bồi thường đó là bồi thường về việc mất danh dự, chứ không phải bồi thường vì mất gà. Về sau hai nhà trở mặt, không qua lại với nhau nữa.
Đó là việc nhỏ, càng lên trên cao tình hình càng nghiêm trọng hơn, song đều thuộc vụ án đã hủy bỏ, bởi đầu giấy đều đánh gạch chéo màu đỏ.
Đàn ông, họ tên Diêu Cần Thọ, mặt có hai nốt ruồi, lông mày rậm, mắt nhỏ, mũi rộng, môi dày, cao sáu thước năm, ngực có vết thẹo, dài một tấc.
Y sát hại gái lầu xanh đứng đường là Đào Hoa, cô gái số 6 lầu Vọng Xuân, dung mạo đẹp, tận tình, tài nghệ tốt, biết đánh đàn, mặt mũi sáng mịn, lông mày lá liễu, mắt to, mũi thuôn nhỏ, đôi môi anh đào. Thủ đoạn của y tàn nhẫn, dùng ám khí. Có võ công nhất định. Đề nghị người biết tung tích báo quan. Nếu thông tin xác thực, ma ma phòng số 3 lầu Vọng Xuân bằng lòng khuyễn mãi mười đêm xuân miễn phí, không cần gọi số, tùy chọn bất kỳ cô nương nào rảnh rỗi.
Do điều kiện hấp dẫn, vụ này nghe nói có rất nhiều người trình báo, chỉ cần phù hợp với một số miêu tả về diện mạo của người đàn ông như lông mày rậm hoặc mắt nhỏ, họ cứ báo quan trước, dù sao báo sai cũng không bị trách tội. Vụ việc này phát triển về sau, hễ có người cao sáu thước năm đều bị người có chiều cao khác bắt trói lại đem báo quan, có một thời gian, những người cao sáu thước năm ở Tuyết Bang đều không dám ra đường, chưa đi được mấy bước đằng sau đã có tiếng gọi lại: Gớm nhỉ, thì ra ngươi là Cần Thọ, sau đó chẳng biết tại sao một toán người lao đến trói lại. Đây là lần duy nhất, chưa từng có trong lịch sử, lợi ích của phụ nữ được coi trọng trong xã hội này. Một người bán thân bị giết, toàn dân đều hành động. Về sau lệnh truy nã này bị hủy bỏ, bởi nó khiến xã hội động loạn.
Tiếp tục nhìn lên trên cao nữa, còn có cáo thị truy nã nghiêm trọng hơn:
Đàn ông, cao tuổi, kèm một chân dung. Dung mạo như trong tranh, cao năm thước rưỡi, người này mang theo rất nhiều ám khí, trong một đêm sát hại cả nhà ông Vương Thạch Sơn bán đậu phụ ở phố hàng Bạc, cả thảy năm người, đồng thời còn cướp đi một số vàng bạc. Vụ án nghiêm trọng, đề nghị người biết tung tích báo quan.
Trên nữa còn có một lệnh truy nã:
Đàn ông, tội phạm đã có tiền án tiền sự, kèm một chân dung. Dung mạo như trong tranh, cao sáu thước hai, người này phạm tội đã nhiều năm. Quen dùng ám khí, ra tay hiểm độc, trong bốn năm tổng cộng đã ám sát hơn trăm người ở Trục thành, Quá Sa, Tuyết Bang, Vụ Lưu, Đồng Điền, mối nguy hại cực lớn, đề nghị người biết tung tích báo quan, không được tự ý bắt, phải giữ một khoảng cách nhất định.
Hỷ Lạc than thở, vụ này quá lợi hại. Song thấy bên trên nữa vẫn còn một tờ, liền hỏi, tờ trên cùng kia chắc chắn ghê gớm hơn, huynh xem xem đó là ai?
Tôi kiễng chân nghển cổ nhìn, rất muốn xem tờ trên cùng thế nào, song cố gắng nhìn mãi, cuối cùng đành phải cụt hứng nói với Hỷ Lạc: Thực sự không thể cố được, bức tường này thẳng quá, dán quá cao, huynh chẳng thế trông thấy gì cả. Lẽ ra phải dán ngược lại, không thể để tay trộm gà được dán dưới cùng được.
Hỷ Lạc nói: Ai mà biết được, chắc những thứ quan trọng thường hay ở chỗ cao mà, kẻ đó có khi giết phải đến nghìn người, thôi chúng ta vào thành đi!
Tôi và Hỷ Lạc vội vã vào thành, tìm một lữ điếm trọ lại. Tôi phát hiện thấy Tuyết Bang không hề hỗn loạn như tôi tưởng tượng, ở đây dường như rất có trật tự, phía xa xa thấp thoáng có thể thấy một ngọn cô sơn dính phủ đầy tuyết.
Những người vào thành dường như không bị kiểm tra, bầu không khí ở đây hoàn toàn khác so với Trường An, tựa như chưa hề xảy ra chuyện gì cả, khác với lời đồn đây là nơi các bang phái đóng quân. Song tôi nghĩ, các bang phái lớn cũng giống như Thiếu Lâm, họ sẽ không đóng quân trong thành, triều đình mà ngứa mắt, muốn diệt họ thì chỉ cần đóng cửa thành lại là xong, người bên trong không thoát ra được mà huynh đệ bên ngoài cũng không vào được. Tương truyền Võ Đang cũng ở trong một đạo quán trên đỉnh núi gần Tuyết Bang. Do nội quy trong chùa không cho phép hỏi về việc này, nên tôi không biết cụ thể họ ở đạo quán nào, song tôi nghĩ danh tiếng của nó sẽ được đồn thổi ra ngoài.
Tuyết Bang không lớn, mất khoảng nửa ngày là có thể đi hết. Tôi và Hỷ Lạc đều ngạc nhiên khi không thấy có bất kỳ ai giắt kiếm, dường như họ đều là những người dân chất phác. Tôi phân vân hoài không rõ cái đám ngày thường vẫn đánh đấm loạn xạ rốt cuộc đã đi đâu. Hay là màn đêm chưa buông xuống thì chúng chưa ló ra hoạt động? Ở đây chẳng có chút không khí nào như lời đồn đại rằng hàng ngày phải có mấy người thiệt mạng trên đường. Cảm giác nơi đây lại là một nơi rất hợp để sinh sống.
Bỗng nhiên, xảy ra một việc, một người cưỡi ngựa, lao gấp về phía chúng tôi, tình thế y như lần trước, vẫn là Hỷ Lạc đang đứng ở giữa đường, tôi băn khoăn chẳng hiểu sao cô nàng cứ nhất định phải đứng giữa đường, thế rồi tôi quơ tay kéo Hỷ Lạc sang một bên, vốn dĩ bản thân tôi có thể nhẹ nhàng lánh ra, song tôi phát hiện tên cưỡi ngựa đó rõ ràng thấy sắp đụng phải người đi đường mà vẫn không hề có ý ghìm ngựa, hơn nữa con ngựa đó còn nhăn mặt, lè lưỡi, phồng mũi nhằm thẳng vào tôi lao tới, bộ dạng rất xấu xí. Tôi né sang bên cạnh, rút kiếm từ trong tay nải của Hỷ Lạc, nện thẳng vào chân ngựa, thế là cả người lẫn ngựa cùng đổ rầm xuống đất.
Hỷ Lạc lao tới nói: Huynh điên rồi à! Con ngựa đó có làm gì đâu, sao huynh lại chém phăng bốn chân nó đi?
Tôi nói: Hỷ Lạc ơi, huynh có chém đâu. Muội xem, nó vẫn dính vào thân đấy chứ?
Con ngựa từ từ bò dậy trước tiên.
Hỷ Lạc nói: Muội không tin, sau mấy giây nữa chắc chắn chân nó đứt.
Tôi nói: Hỷ Lạc ơi, kiếm của huynh vẫn ở trong vỏ mà.
Hỷ Lạc liếc nhìn, thở phào một tiếng.
Đang nói thì vị huynh đệ cưỡi ngựa cứ luôn miệng rên xiết trên đường. Tôi bước tới nói: Ngươi phóng như thế nguy hiểm quá, ta cũng chẳng qua bất đắc dĩ mà thôi.
Người đó chẳng nói chẳng rằng, cứ thế òa khóc.
Thấy đàn ông khóc, tôi luốn cuống hỏi: Có chuyện gì vậy?
Người đó nói: Chân ta e là gẫy rồi. Ta toi rồi.
Tôi nói: Chân gãy thì vẫn có thể liền lại.
Người đó nói: Ta không thể làm minh chủ của giang hồ được rồi.
Tôi kinh ngạc nói: Có liên quan gì đến nhau nhỉ.
Người đó nói: Chẳng lẽ người không biết?
Hỷ Lạc cũng tiến lại gần, chúng tôi nhìn hắn, cùng lắc đầu.
Người đó nói: Hôm nay là ngày võ lâm chọn ra minh chủ.
Tôi hỏi: Chẳng phải có minh chủ rồi sao, Thiếu Lâm ấy?
Người đó nói: Vụ lần trước không tính, lần này là chọn người chứ không chọn bang phái, vả lại ngôi chùa lớn nhất của Thiếu Lâm chẳng phải đã bị giết sạch rồi đó sao? Cũng chẳng biết do ai làm.
Tôi nói: Vậy trận quyết chiến diễn ra ở đâu?
Người đó nói: Ở Hạ Tuyết Sơn ngoài thành.
Tôi nói: Ta biết rồi, ngươi dưỡng thương đi!
Người đó nói: Ngươi muốn đi...
Hỷ Lạc nói: Ngươi dưỡng thương đi, ngươi đi thì cũng lại có kết cục như thế này thôi.
Tôi và Hỷ Lạc quất ngựa chạy thẳng tới Tuyết Sơn.
Chẳng trách ở Tuyết Bang chỉ có bá tánh, thì ra đám nhân sĩ náo loạn kia đều đã tới Tuyết Sơn tỉ thí võ công.
Dọc đường không thấy bóng người, xem chừng tôi và Hỷ Lạc quả thực đi hơi muộn. Vả lại chạy suốt hai giờ đồng hồ, tôi gần như tuyệt vọng, bởi ngọn Tuyết Sơn kia trông vẫn thế, cơ hồ không có vẻ gì là đã tới gần, câu “...” có lẽ sắp ứng nghiệm. Tuy nhiên, tôi dường như nghe thấy ở phía không xa có tiếng người nhốn nháo, bất giác thấy hiếu kỳ lại gắng thúc ngựa tiến về phía trước, qua một cái dốc nhỏ, tôi và Hỷ Lạc đều kêu lên kinh ngạc. Trước mắt có hàng vạn người vây chặt một lôi đài, bên cạnh lôi đài chính là dịch trạm được gọi là Hạ Tuyết Sơn.
Hỷ Lạc hỏi tôi: Chúng ta tới rồi à?
Tôi nói: Tới rồi. Mau vào xem đi, hình như vẫn chưa quá muộn.
Đến trước cổng vào được hàng rào quây kín, tôi, Hỷ Lạc và con Lép bị chặn lại, tên gác cửa nói: Ngựa không được phép vào.
Tôi thốt lên một tiếng “Ồ”, sau đó tiện tay cột con ngựa vào hàng rào, rồi bước tới.
Tên gác cửa bực nói: Không phải cột ở đây, cột ra đằng sau.
Tôi và Hỷ Lạc dắt ngựa ra phía sau, chúng tôi lại được phen giật thót mình khi trông thấy hàng nghìn con ngựa khác, ngoài con Lép của chúng tôi còn dễ nhận ra, các con ngựa khác dường như chỉ có thể nhận dạng dựa vào màu sắc. Tuy nhiên chúng đều là ngựa tốt cả.
Chúng tôi quay lại cổng vào, tên gác cửa nói: Có vé vào không?
Tôi nói: Không có. Ở đây còn đòi vé cơ à?
Tên gác cửa nói: Đây là tổ chức chính quy, không vớ vẩn như bận trước, phải có vé mới được vào, không có thì ra đằng kia mà nghe.
Hỷ Lạc nói: Làm gì có cái lý nào đến để nghe hả ông anh, chúng tôi tới tham gia đả lôi đài.
Tên gác cửa hỏi: Ồ, đến tham dự đả lôi đài à, có vé không?
Hỷ Lạc nói: Đả lôi đài cũng phải có vé à?
Tên gác cửa nói: Không có thì bó tay, người muốn làm minh chủ quá đông, phải khống chế số lượng, muốn tham gia đả lôi đài thì phải thông qua vòng sơ khảo trước đã, sau khi đủ tư cách, cầm được vé thì mới được vào vòng trong.
Tôi nói: Vậy tôi mua vé ở đây được không?
Tên gác cửa nói: Không được.
Tôi nói: Vậy cứ để tôi vào đã, tôi gửi anh trước một ít tiền được không?
Tên gác cửa nói: Vậy lại càng không được, ngươi xem bên trong hàng bao nhiêu người, chỉ sợ ngươi cố lao vào, bọn ta không phân biệt được ai vào với ai.
Tôi nói: Đúng, cách hay đấy!
Nói đoạn, tôi liền kéo Hỷ Lạc xông qua cổng, lập tức chui vào trong đám người hỗn độn, khó khăn lắm mới lách được lên phía trước. Trên lôi đài có một lực sĩ lạ mặt, hỏi ra mới biết là người đến từ Đông Dương, hắn chẳng biết nói câu nào để người khác nghe hiểu được cả, không rõ nghe ngóng ở đâu biết nơi này có cuộc tỉ thí võ công, đồn rằng hắn dò la biết được trận tỉ võ ở Trường An trước, sau đó lên thuyền tới đây, bởi hắn nghe nói kẻ thắng cuộc trong cuộc tỉ võ này có thể có được vàng bạc và hàng trăm cô gái trong thiên hạ. Những người bên cạnh đều bàn tán lầm rầm, đồ rằng vị huynh đệ này liệu có nghe nhầm minh chủ thành hoàng đế hay không.
Song bất luận thế nào, hắn ta cũng có sức lực mà người thường không thể so bì được. Nghe nói hắn đã đánh bại không ít người trên lôi đài, vả lại người bị bại đầu tiên chính là nhị bang chủ của phái Phi Ưng, được gọi với cái tên Thiết thạch xuyên vô địch thoái – Ngô chột.
Tôi kinh ngạc hỏi: Ngay cả Ngô chột cũng bị đánh rớt rồi sao?
Ngô chột là vị nhân sĩ giang hồ tôi thường nghe nói tới, từ nhỏ đã chột một mắt, luyện võ chỉ luyện chân, luyện được đôi chân cứng chắc nhất, nhanh lẹ nhất trong giang hồ. Bởi trước mấy ngày tôi chuẩn bị lên đường, sư phụ có nhắc tôi một vài cái tên, bảo rằng, những người này có bản lĩnh thực sự, không nên đụng vào. Trong đó có Ngô chột, người này căm thù Võ Đang và Thiếu Lâm, liền cùng ông bố tổ chức ra Phi Oanh phái, có mấy chục người, nhưng tên tuổi chấn động Tuyết Bang, ai ngờ sau đó đồn đến tai một bang phái lớn hơn là Phi Ưng phái, phái này nghe nói có bang phái có cái tên na ná như phái mình, liền lập tức muốn xông ra tiêu diệt, kết quả là, sau khi bắt chuyện với Ngô chột, hai người nói chuyện hết sức hợp nhau, phái Phi Oanh của Ngô chột liền nhập vào phái Phi Ưng, vậy nên Ngô chột trở thành nhị bang chủ.
Việc này chứng tỏ, nhân sĩ giang hồ đều là những kẻ vô văn hóa, tên bang phái giống nhau đâu phải ít. Thiếu Lâm và Võ Đang sở dĩ được coi là bang lớn bởi tên của họ nghe là biết do người có văn hóa đặt ra. Ít nhất thì trong tên của hai bang phái này không xuất hiện các loài động vật, nào là ưng, hổ, hạc, báo, ngưu trâu, mã ngựa, thoạt nghe đã biết sẽ chẳng nên cơm nên cháo gì rồi. Đệ tử Thiếu Lâm ngoài việc tập võ, tụng kinh, còn được truyền dạy những kiến thức sơ đẳng như trong các trường tiểu học, kém nhất thì cũng đạt tới trình độ về cơ bản xóa mù chữ. Bất luận thế nào, cũng rất hữu ích, bởi mấy vị đại hiệp đến sớm nhất, nghe nói khi đi qua nơi đây đều không dừng lại. Nếu họ có thể đọc ra ba chữ “Hạ Tuyết Sơn” treo cao trên dịch trạm này sẽ không phải băn khoăn vắt óc dưới núi Tuyết Sơn không có lấy một bóng người kia.
Tôi bất giác cảm thấy hiếu kỳ trước võ nghệ của vị lực sĩ Đông Dương này, đoạn nói: Anh ta to lớn thế, lẽ nào có thể né tránh được các loại ám khí tinh hoa nhất của nước ta?
Người bên cạnh tôi nói: Đừng nhắc tới nữa, lần này không cho dùng ám khí, một là sợ gây sát thương với người khác, hai là sợ cuộc tỉ thí kém thú vị, về sau sẽ không có ai đến xem nữa. Suy cho cùng cũng phải có thu nhập để còn làm kinh phí hoạt động chứ. Vả lại, võ công là đại tông phái, ám khí chỉ là một phân chi. Nghe thấy bảo cuộc tỉ thí lần này phải tránh như lần trước, phải coi đại tông phái làm trọng.
Tôi nói: Chẳng trách, vậy lẽ nào Ngô chột không dùng cước pháp vô địch của y?
Những người xung quanh đều là lũ lượt cảm thán: Đừng nhắc tới nữa, vì đại hội lần này, Ngô chột hôm nào cũng dậy sớm luyện tập tới đêm, thế là tẩu hỏa nhập ma, hôm trước đột nhiên không bị chột nữa.
Tôi và Hỷ Lạc thốt lên: Cuối cùng thì hai mắt đều thấy rõ rồi à.
Người kia vỗ đùi, ngậm ngùi nói: Giời ơi, mù cả hai mắt rồi.
Tôi sững sờ, hỏi: Vậy làm sao mà lên đả lôi đài được?
Người kia nói: Đúng vậy, đấy thì người lên đầu tiên chính là lực sĩ Đông Dương này, người khác đều không lên, bởi thấy thân hình hắn to lớn quá, cho dù đánh thắng, cũng tiêu tốn không ít thể lực, nội lực, vậy nên chẳng có ai lên, ai nấy đều chờ nhau. Ngô chột không nhìn thấy gì, thế là lên đài, còn chưa chạm được vào người ta, đã bị đánh rớt đài rồi.
Tôi và Hỷ Lạc không ngừng chẹp miệng.
Tôi hỏi: Vậy có còn ai lên đài nữa không?
Người bên cạnh nói: Nhiều chứ, đánh liền tám người rồi.
Tôi nói: Tám người. Có những ai vậy?
Người bên cạnh nói: Những kẻ chưa có tên tuổi thì miễn bàn, múa may được mấy chiêu rồi thằng thì rớt đài, thằng thì gãy chân tay. Có chút danh tiếng hơn thì có Trương Hiến Long ở phái Liêu Sơn.
Tôi nói: Trương Hiến Long tiền bối chẳng phải được gọi là Thiên hạ đệ nhất khoái Long my bảo kiếm đó sao?
Người bên cạnh trả lời: Đúng vậy.
Tôi lại hỏi: Vậy sao lại thua nhỉ? Vị lực sĩ này di chuyển chậm chạp, Trương Hiến Long lên thì tha hồ xẻo thịt, chẳng phải vậy sao?
Người bên cạnh nói: Đúng vậy.
Hỷ Lạc hỏi: Vậy tại sao lại thua?
Người bên cạnh nói: Có trách thì trách cái bản thân ông Trương Hiến Long này. Ông ta lên đài, lại nói với tên béo Đông Dương, “Ta nom ngươi không mang vũ khí, ta cũng sẽ không dùng thanh kiếm bén nhất giang hồ của ta nữa, sẽ trực tiếp dùng võ công của ta để lĩnh hội võ công của ngươi”. Thế rồi bị tên béo đè chết.
Tôi và Hỷ Lạc kinh ngạc nói: Trời, chết rồi sao? Trương Hiến Long cũng có bị chột đâu, làm sao lại để đè chết cơ chứ?
Người bên cạnh nói: Đúng thế, có trách thì trách cái ông này quá nhiều lời, nói xong lại còn quay xuống dưới khán đài, chắp tay nói: Tôi, Trương Hiến Long phái Liêu Sơn, chưa nói dứt câu đã bị tên béo chết tiệt này tung chiêu Di Lặc nằm kềnh, đè cho chết bẹp.
Tôi hỏi: Tên này sao không có đạo đức nghề nghiệp gì cả?
Người bên cạnh nói: Có trách vẫn chỉ có thể trách Trương Hiến Long nói nhiều, người kia nghe có hiểu gì đâu, nói nhiều như thế người ta lại tưởng ông khiêu khích, vậy thôi, nó xoay người đánh chết luôn.
Tôi hỏi: Vậy sao không có vị dũng sĩ nào bước lên?
Người đó nói: Những tên lợi hại đều muốn lên sau cùng, không thể hiển lộ bản thân quá sớm, bằng không có chiêu thức gì đều sẽ bị người khác biết hết.
Lúc này tôi mới nghĩ đến sự lợi hại của việc không có chiêu thức mà sư phụ từng nói.
Bấy giờ, vị lôi quản tiến lên phía trước nói: Còn có ai muốn khiêu chiến không?
Dưới khán đài nhao nhao tiếng nói: “Có! Có! Có!”
Song một hồi lâu vẫn không có ai lên.
Tên béo Đông Dương cứ đi đi lại lại trên lôi đài, đồng thời không ngừng lớn tiếng càu nhàu.
Lôi quản lại hỏi lần nữa: Có ai không? Không có ai thì chúng tôi tuyên bố minh chủ nhé!
Dưới khán đài lại nhao nhao lên: Giết nó đi!
Một người khác nhảy lên lôi đài, nói lớn: Tôi là Vương Trung Nhân phái Võ Đang, xin được lĩnh giáo! Nói đoạn liền giở thế võ Thái Cực quyền.
Võ Đang sớm có Thái Cực quyền, về sau dần mở rộng, mọi đường đánh đều trở nên thành thục, song cái ngón Thái Cực này chỉ có người tập luyện công phu mới đánh được, học hành không đến nơi đến chốn sẽ hết sức vớ vẩn, bởi lẽ Thái Cực chú trọng vào việc dùng nhu khắc cương, song cái gọi là nhu, nhất định phải được xây dựng trên cơ sở cương, bằng không đàn bà con gái đầu đường cuối phố đã đều tập Thái Cực rồi. Vương Trung Nhân trong Võ Đang thuộc hàng nguyên lão, là một trong những bậc thầy cấp cao của tất cả học trò, quyền cước xuất quỷ nhập thần, nên đương nhiên không hề dè sợ tên tiểu sinh văn nhược này.
Nói đoạn, anh chàng kia liền dùng một quái chiêu, chiêu thức chỉ có phái Nga My mới có, Vương Trung Nhân không chú ý, bị dính một trảo, bất giác lùi sau ba bước.
Mọi người kinh ngạc, rì rầm chỉ trích chàng trai trẻ tuổi nói năng hàm hồ, y rõ ràng là người của phái Nga My, chàng trai nghe thấy vội giở thế Thái Cực, mọi người lại kinh ngạc, không thốt ra lời nào nữa.
Công lực của hai người gần như ngang cơ, khó phân cao thấp, khó có thể ức đoán, lúc này, Vương Trung Nhân quát: Chắc chắn ngươi đã từng học ở Võ Đang.
Chàng trai nói: Chưa từng, tại hạ chỉ cần nhìn là biết.
Vương Trung Nhân nói: Nói láo, trọng tâm của Thái Cực là tâm thuật, tâm thuật không thể học được.
Chàng trai nói: Tại hạ thấy, tất cả võ công đều nằm ở độ nhanh chậm, tâm thuật là thứ vô dụng.
Dưới khán đài lại nhao nhao lên nói: Nói ít thôi, mau đánh nhau đi!
Hai người quyết định dùng binh khí. Điều khiến mọi người kinh ngạc là, anh chàng kia quyết định sử dụng côn Thiếu Lâm. Dưới khán đài một lần nữa bị kinh động. Màn múa kiếm của Vương Trung Nhân quả không tồi, song vì một thời gian dài dạy dỗ học trò, nên đã hình thành nên một thói quen không tốt, cứ sau mỗi chiêu khó, ông ta lại dừng lại xem học sinh có thấy rõ hay không. Nhân sơ hở đó, chàng trai vô danh lập tức nện cho ông ta ngất lịm. Mọi người đều hết sức thương tiếc, song điều này chứng tỏ Vương Trung Nhân thực sự là một người thầy giỏi từ trước tới nay đều không giành được thắng lợi trong các cuộc thi đấu chính thức.
Sau đó một học trò của Vương Trung Nhân lại nhảy lên, song chưa được mấy chiêu đã bị đánh rớt xuống. Mọi người đều chờ đợi cao thủ thực sự xuất hiện.
Đột nhiên, một luồng sáng đen bay vụt lên từ trong đám đông, vọt lên cao quãng sáu trượng, nhảy thẳng lên lôi đài.
Tôi chợt nhận ra, người đó, chính là sư phụ Huệ Nhân, vị sư phụ nổi tiếng nhất của chùa Thông Quảng thuộc Thiếu Lâm.
Người đã khơi dậy ký ức của tôi.
Hồi tôi còn nhỏ, sư phụ Huệ Nhân chùa Thông Quảng thường tới chùa chúng tôi truyền dạy tâm kinh. Bấy giờ mọi người đều được truyền dạy kỹ, bởi võ công của Huệ Nhân sư phụ có thể coi là đại diện cho đẳng cấp cao nhất của võ công Thiếu Lâm, bất kể quyền pháp, thoái pháp, côn pháp sư phụ đều tinh thông. Bấy giờ ở Trường An, người thay mặt cho Thiếu Lâm ra nghênh chiến chính là Huệ Cảnh, đồ đệ của Huệ Nhân sư phụ. Thiếu Lâm xưa nay đều cảm thấy xét về mặt võ công, Võ Đang quả thực không thâm hậu, vậy nên mấy vị cao thâm lợi hại nhất đều không lộ diện. Ai ngờ, lần này Thiếu Lâm xảy ra đại sự, đã bức vị sư phụ Huệ Nhân cả đời đạm bạc này tới đây.
Công phu nổi tiếng nhất trong giang hồ của sư phụ Huệ Nhân chính là khinh công. Chúng tôi từ nhỏ đã được nghe nói đến, khinh công của sư phụ Huệ Nhân có thể nói là chỉ cần nhún nhẹ chân, tòa lầu ba tầng tối với sư phụ chỉ là chuyện nhỏ. Vậy nên chúng tôi rất hiếu kỳ về việc này, luôn bám riết sư phụ đòi học khinh công, song đều không được toại nguyện, có lẽ do chúng tôi không đủ nhẹ. Sư phụ tôi thường bảo với tôi rằng không có thuật khinh công đâu.
Song tôi và sư huynh Thích Không vẫn tin chắc rằng khinh công có thật.
Nhắc đến sư phụ Huệ Nhân là nhắc tới khinh công, trong giang hồ thì đồn đại ông chỉ cần nhún chân một cái thì nhảy được độ cao tương đương ba tầng lầu là chuyện nhỏ.
Rồi đến một ngày, cuối cùng tôi cũng lấy hết dũng khí hỏi sư phụ Huệ Nhân xem có phải như vậy không.
Sư phụ Huệ Nhân cười ha hả nói: Đúng vậy. Họ nói không sai đâu.
Tôi hỏi: Vậy sư phụ mất bao lâu thì nhảy lên được ạ?
Sư phụ Huệ Nhân xua tay nói: Ồ, ý ngươi là nhảy lên à, ý ta là nhảy xuống là chuyện nhỏ, nhảy xuống thì rất nhanh, vù một cái là xuống thôi, song phải tĩnh dưỡng ba tháng mới nhảy được một lần.
Việc này khiến giấc mộng khinh công thủa nhỏ của tôi tiêu tan, song sư phụ Huệ Nhân quả thực chân nhẹ như chim én. Ông cũng là một vị nhân sĩ được truyền tụng trong giang hồ, vậy nên vừa lên lôi đài đã khiến mọi người xung quanh ào ào bàn tán.
Anh chàng kia vừa thấy sư phụ Huệ Nhân lập tức gập người, nói: Tại hạ từ nhỏ đã xem trưởng lão luyện võ, dạy võ, tự biết không phải đối thủ của tiền bối, nên xin được chịu thua.
Chàng trai lập tức nhảy xuống khỏi lôi đài. Hỷ Lạc nói: Anh ta quả là người thú vị.
Sư phụ Huệ Nhân nói: Lão nạp tin rằng, mọi người cũng đều biết, Thiếu Lâm xưa nay không gây thù kết oán, song lại bị tiểu nhân hạ độc thủ, nếu có đảm lược, lão nạp hy vọng họ lên cả đây, lên cùng một thể cũng được.
Sư phụ nói vậy, một hồi lâu không thấy ai bước lên.
Sư phụ Huệ Nhân không ý thức được rằng, ông nói như vậy, khiến những bang phái muốn tỉ thí võ không dám lên lôi đài. Sư phụ đứng trên đó hồi lâu, rốt cuộc vẫn giống như tay võ sĩ Đông Dương. Sư phụ Huệ Nhân nói: Đội ơn các vị nhường nhịn, lão nạp vì muốn chấn hưng Thiếu Lâm, chỉnh đốn giang hồ, nguyện ngồi ở vị trí này.
Vừa nói hết câu, từ phía dưới lôi đài có một người nhảy lên, mọi người nhìn kỹ lại, thì ra là Mục Thiên Ưng, bang chủ Thiên Ưng phái.
Mục Thiên Ưng lên lôi đài khiến tâm trạng của mọi người bị đẩy lên tột độ. Trong giang hồ, tuy địa vị của Thiên Ưng phái chỉ ở mức tầm tầm, song Mục Thiên Ưng đích xác là một cao thủ trong các cao thủ. Từ rất sớm Mục Thiên Ưng và Vô Linh từng có một trận đại chiến nổi tiếng, mọi người đều biết có người chi tiền để lấy mạng của Mục Thiên Ưng, và sát thủ cuối cùng chính là Vô Linh. Hai người đánh nhau từ lúc sẩm tối đến lúc trời sáng, mọi người đều vây quanh xem, song sau cùng vẫn bất phân thắng bại, chẳng ai đả thương ai. Từ đó danh tiếng của Mục Thiên Ưng mới thật sự lẫy lừng, bởi trong lòng mọi người, những người mất tích hoặc đi xa một cách bí mật đều không phải người thường, trong khi ai nấy đều có ấn tượng rằng Vô Linh có thể giết chết bất kỳ ai, vậy nên qua trận quyết chiến có thể thấy được phần nào võ công của Mục Thiên Ưng.
Hai người đứng sừng sững trên lôi đài hồi lâu.
Chường đầu tiên Mục Thiên Ưng phóng ra, sư phụ Huệ Nhân nhẹ nhàng né được, song đòn thế của Mục Thiên Ưng tuyệt đối hiểm độc, bởi tôi nhìn thấy bàn tay còn lại của hắn đang thập thò chực xỉa vào chỗ riêng tư của sư phụ Huệ Nhân. Sư phụ Huệ Nhân dĩ nhiên phát giác ra, lập tức tóm lấy tay y, khiến Mục Thiên Ưng nhất thời không thể rút tay về được. Nếu sư phụ Huệ Nhân không phát hiện ra mà bị dính đòn, ông chắc chắn sẽ rất oan ức. Là bậc trưởng lão đức cao vọng trọng, giữ nghiêm quy củ của Thiếu Lâm, chỗ ấy mà bị dính đòn, thì hoàn toàn trái với đạo lý ác giả ác báo, thiện giả thiện báo, ít nhất trong tình huống này là như vậy. Tuy nhiên sư phụ Huệ Nhân đã ung dung chuyển hóa thành ưu thế cho mình.
Mục Thiên Ưng giáp lá cà liền tung một cước, sư phụ Huệ Nhân nghiêng người tránh được, Mục Thiên Ưng tưởng sư phụ Huệ Nhân phân tán tư tưởng, liền rụt mạnh tay lại, song phát hiện ra sư phụ Huệ Nhân vẫn bắt chặt tay y.
Người né được, nhưng tay không né được, bởi hai tay liền một khối, Mục Thiên Ưng tiếp tục tung một trưởng đánh vào phía cổ tay sư phụ Huệ Nhân, sư phụ Huệ Nhân liền buông tay đánh một chưởng vào ngực Mục Thiên Ưng. Mục Thiên Ưng cũng làm một việc trái với lẽ thường là ngay sau khi sư phụ Huệ Nhân buông tay, hắn không rút ngay tay về mà lập tức lao tới, đánh luôn một chưởng vào ngực sư phụ Huệ Nhân.
Hai người đều lùi lại một bước.
Những người dưới lôi đài đều khen một tiếng “Hay”, bởi mọi người đều không nhìn thấy rõ.
Mà Hỷ Lạc lại nắm chặt lấy tay tôi.
Sau chiêu đầu tiên, hai người lại giao chiến kịch liệt với nhau ít nhất phải mấy tuần hương. Họ tung đòn tấn công rồi phòng thủ, mỗi người một vẻ. Quyền cước của cả hai đều cực kỳ nghiêm cẩn.
Bên cạnh tôi có một người nói: Ngươi xem, lúc này mà không dùng quyền cước là thắng đấy.
Tôi nói: Đúng thế.
Người bên cạnh lại nói: Đó là lý do vì sao ta không dạy con những thứ đó.
Tôi nói: Vâng ạ.
Hỷ Lạc kéo áo tôi. Tôi đang tập trung cao độ vào diễn biến trên lôi đài. Tôi hỏi: Sao vậy Hỷ Lạc?
Hỷ Lạc nói: Huynh xem, là ai đây?
Tôi nói: Huynh thấy chắc Thiếu Lâm thắng.
Hỷ Lạc nói: Không phải, huynh xem bên cạnh huynh là ai kia?
Tôi quay sang nhìn, suýt nữa thì choáng váng, tôi thốt lên: Sư phụ! Người...
Sư phụ tôi nói: Lâu rồi không gặp, lâu rồi không gặp!
Tôi bấy giờ hết sức sững sờ, không nói được nên lời. Tôi luôn tin chắc rằng sư phụ không thể nào chết được. Chủ yếu là bởi không thấy xác của ông. Tôi vội hỏi: Phương trượng và sư huynh đâu ạ?
Sư phụ nói: Đều ổn, mọi thứ đều ổn cả. Tránh được việc này cũng là do vô tình mà thôi, lát nữa ta sẽ từ từ kể cho con. Hỷ Lạc, con cũng tưởng sư phụ chết rồi sao?
Hỷ Lạc nghe thấy vậy liền khóc òa.
Trên lôi đài Mục Thiên Ưng đã dần dần lộ rõ thế yếu. Nếu không có điều bất ngờ xảy ra, thực lực hai bên sẽ quyết định thắng bại. Sư phụ Huệ Nhân vẫn không đổi sắc mặt, nhẹ nhàng ứng phó.
Tôi hỏi: Sư phụ sao lại tới đây?
Sư phụ nói: Bởi các bị tiền bối của Thiếu Lâm đều bàn rằng sẽ quyết định một số việc ở đây.
Tôi hỏi: Vậy cuộc tỉ thí lần này là thế nào ạ?
Sư phụ nói: Con cũng thấy đấy, Thiếu Lâm đã xảy ra chuyện lớn, cuộc tỉ thí lần trước thực ra chúng ta thắng nhưng không khiến người ta tâm phục, vậy nên mọi người đều cảm thấy cuộc tỉ thí chọn minh chủ lần này do Võ Đang phát động.
Tôi hỏi: Vậy sao Võ Đang lại nắm chắc phần thắng đến thế ạ?
Sư phụ nói: Ta không biết, mọi người cũng đều cảm thấy kỳ lạ. Kẻ có võ công cao cường nhất trong Võ Đang hiện giờ chính là Lưu Nghĩa, anh ruột của Lưu Vân, tuy võ công của Lưu Nghĩa không tồi, song thực sự hắn không thể đứng ở vị trí thứ mười trong số mười người đứng đầu trong giang hồ được, không rõ vì sao lại phát động cuộc tỉ thí này.
Tôi nói: Vậy ta càng cẩn thận trọng hơn nữa.
Sư phụ nói: Đúng vậy, đây lại là địa bàn của Võ Đang. Không biết chúng định giở trò thế nào.
Tôi hỏi: Vụ việc ở Thiếu Lâm, rốt cuộc do kẻ nào gây ra ạ?
Sư phụ nói: Hiện không tiện nói, mọi người đều bảo là do Võ Đang, ta thấy sự việc không đơn giản như vậy đâu.
Tôi hỏi: Có một việc con cần báo cáo, khi con đi ngang qua Quá Sa...
Sư phụ ngắt lời nói: Ta biết vụ việc đó rồi. Con có thể nghĩ rằng con đã báo thù cho Thiếu Lâm. Song về việc rốt cuộc có phải do toàn người đó thực hiện hay không, con chớ nghĩ nhiều thêm nữa.
Tôi nói: Con nghe chính miệng chúng nói ra mà, ở trong tửu lâu.
Sư phụ nói: Việc chính miệng nói ra chưa chắc đã là việc do chính tay làm.
Tôi nói: Vậy con chẳng phải đã giết oan họ sao.
Sư phụ nói: Cũng không thể nói như vậy. Tóm lại, cứ xem diễn biến trước mắt đã.
Nói đoạn, Mục Thiên Ưng bị trúng một chưởng của Huệ Nhân sư phụ, miệng thổ ra máu tươi. Dưới lôi đài lại rì rầm bàn tán. Suy cho cùng, chẳng ai muốn việc gì cũng do Thiếu Lâm làm chủ.
Song, dường như không có cao thủ nào nắm chắc phần thắng.
Mọi người đều xì xào bàn tán, không biết bao giờ Lưu Nghĩa mới xuất hiện. Bởi họ tin chắc rằng, cuộc tỉ thí võ công lần này là do Võ Đang phát động, cho nên Lưu Nghĩa chắc chắn đã luyện được môn thần công nào rồi.
Cuối cùng thì Lưu Nghĩa cũng xuất hiện.
Mọi người cảm thấy đây mới là trận đấu họ thực sự chờ đợi. Còn minh chủ lần này chắc sẽ là một trong hai người họ.
Đám đệ tử Võ Đang dưới lôi đài reo hò vang dội.
Lưu Nghĩa rất ít khi xuất hiện trong các cuộc đánh lộn, chủ yếu do hắn phụ trách công việc quản lý Võ Đang. Hồi còn trẻ, hắn từng có nền tảng võ công không tồi, song tiếc rằng dường như chưa có ai thấy được bản lĩnh thực sự của hắn.
Lưu Nghĩa chẳng nói chẳng rằng, vừa bước lên lôi đài liền tung một cước quét đất, sư phụ Huệ Chân nhảy nhẹ lên, quả thực như thể khinh công, ông đứng giữa không trung một lúc, rồi mới hạ xuống mặt đắt, sau đó tung một cú xoay mình đá hậu, nhằm thẳng giữa mặt Lưu Nghĩa.
Không ngờ tay trái Lưu Nghĩa đỡ chân, tay phải thuận theo thế trượt xuống, đầu cúi gập lại, vác sư phụ Huệ Nhân lên trên.
Phía dưới trầm trồ.
Sư phụ Huệ Nhân dường như không phản kháng lại, cứ thế cưỡi lên vai Lưu Nghĩa, không có bất kỳ động tác gì. Nghĩ cũng phải, dù chân bạn có đá lên cao đến mức nào đi nữa cũng không đá tới vị trí đó, vả lại chỉ cần buông tay là sư phụ Huệ Nhân sẽ hạ người xuống.
Lưu Nghĩa bất ngờ thuận thế chồm xuống đất, sư phụ Huệ Nhân cũng bị hất xuống, song vẫn đứng vững trên mặt đất. Lưu Nghĩa lại tung một cú quét đất, mọi người rất kinh ngạc, việc sử dụng cùng một chiêu thức nhiều lần quả thực không thường thấy ở các cao thủ.
Sư phụ Huệ Nhân lại một lần nữa nhảy vọt lên cao.
Lưu Nghĩa tung thoái pháp ra nửa chừng liền thu lại, tay chống đất bay vọt lên không trung, khi đối diện với sư phụ Huệ Nhân liền đánh một chưởng. Sư phụ Huệ Nhân nghiêng người né chưởng, đẩy tay Lưu Nghĩa ra, dùng trảo phóng vào ngực y. Lưu Nghĩa cũng nghiêng người, cả hai nghiêng người nhìn nhau trong không trung, rồi tiếp đất cùng một lúc.
Lưu Nghĩa lại bất ngờ tung một cước quét đất. Lần này sư phụ Huệ Nhân không né tránh, nghĩ không thể dùng một chiêu thức đến ba lần. Cú quét đất của Lưu Nghĩa trúng bàn chân của sư phụ Huệ Nhân, bất chợt thời gian như lắng đọng, động tác của hai người đều dừng lại.
Mọi người đều nín thở, muốn biết xem trên lôi đài rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.
Việc vừa xảy ra rất đơn giản, chân của hai người đều cứng, họ đều đau nhói một hồi lâu.
Đợi sau khi cơn đau tan biến, Lưu Nghĩa lập tức sử dụng Thái Cực. Thái Cực là một thứ quyền thuật rất khó mô tả, hình dung. Đến giờ vẫn chưa có một thứ quyền lộ nào có thể khắc chế được. Song với bản lĩnh của sư phụ Huệ Nhân, chắc chắn có thể đỡ được từng chiêu, sau khi trông thấy chiêu thức liền nghĩ ra đối sách, trong tình huống thực chiến, đây tuyệt đối là chiến thuật hữu dụng nhất.
Trên giang hồ có một cách nói rất thịnh hành, tôi và sư phụ đều không thật tán đồng, đó là quyền nọ khắc quyền kia, tỉ như tôi luyện Đường Lang quyền, song nghe nói hầu quyền có thể khắc chế được Đường Lang quyền. Điều này tuyệt đối không có căn cứ, nếu quả thật như vậy thì giang hồ không cần phải đánh đấm nữa, dùng miệng nói là được, hai người gặp nhau, cùng thông báo quyền pháp, sau đó người nói ra quyền pháp kém hơn phải chịu thua. Các loại quyền pháp đều là thứ dùng để nâng cao sức khỏe và kéo dài tuổi thọ, song giang hồ là nơi ganh đua tốc độ, sức mạnh và binh khí.
Sư phụ tôi dạy quyền thuật, cũng có bài quyền, song cùng lắm là vài ba chiêu liền nhau, như vậy mới có thể tùy cơ ứng biến, quyền Thiếu Lâm cũng được triển khai ra nhiều loại quyền cực ngắn. Thái Cực của Võ Đang là một bài quyền dài, càng ngày càng không thích hợp với các trận đấu hiện đại, song may mà ám khí của Võ Đang phát triển rất nhanh, khiến Võ Đang trở thành một bang phái sử dụng ám khí lớn mạnh nhất trong giang hồ, vậy mà lần này bản thân học lại quy định không được dùng ám khí, thật là khó hiểu.
Trên lôi đài, Lưu Nghĩa không ngừng dùng các đòn ngắn tấn công, song đều bị sư phụ Huệ Nhân hóa giải.
Hai người đánh nhau rất náo nhiệt, nhất thời khó phân cao thấp. Song sắc mặt sư phụ Huệ Nhân càng tỏ ra ung dung tự tại. Đột nhiên tôi hét lên “Chết rồi!”
Hỷ Lạc và sư phụ cùng lúc hỏi tôi xem xảy ra chuyện gì.
Tôi nói, trúng ám khí rồi.
Sư phụ hỏi: Ám khí của Lưu Nghĩa à?
Tôi nói: Không phải ạ, từ phía dưới phóng lên. Rất nhanh, chuẩn xác và ẩn mặt, con suýt không phát hiện ra.
Sư phụ gật đầu, hỏi: Có độc không?
Tôi nói: Con không rõ lắm.
Sư phụ liền vỗ vai tôi, nhảy lên lôi đài.
Dưới lôi đài lao nhao mắng nhiếc, ý rằng sư phụ tôi quá nóng vội, ít nhất thì cũng phải đợi sau khi một người xuống đã rồi hẵng lên.
Sư phụ tôi thì thầm nói với sư phụ Huệ Nhân mấy câu. Hai vị lão nhân cùng vội vã rời khỏi lôi đài.
Bên dưới bắt đầu hỗn loạn.
Lưu Nghĩa đứng trên lôi đài, tỏ ra rất khó hiểu.
Một lúc sau, lôi quản bước lên, nói, phái Lưu Nghĩa sử dụng ám khí nên mất tư cách thi đấu.
Lúc này bên dưới như thể mất kiềm chế, mọi người đều nhao nhao muốn lên tra khảo lôi quản.
Lôi quản nói: Chúng tôi phát hiện ra vết trúng ám khí trên người trưởng lão Thiếu Lâm, vậy nên điểm số của họ đều không tính. Đả lôi đài bắt đầu lại từ đầu.
Cuộc tỉ thí đã diễn biến đến mức độ này, nên không có ai dám lên.
Bấy giờ có một nam tử mặc áo dài phong độ phi phàm bước lên lôi đài, tay chống nạnh, cúi xuống nhìn mọi người dưới khán đài.
Tôi ngẩng lên nhìn, quả nhiên là huynh ta. Đây là lần đầu tiên Hỷ Lạc thấy rõ sự vật trước tôi.
Vạn Vĩnh nói: Không có ai lên lôi đài sao?
Lưu Nghĩa phái Võ Đang không tâm phục, lại nhảy lên lôi đài hỏi mọi người phía dưới: Tôi là người thẳng thắn, tuyệt đối không dùng ám khí sát hại sư phụ Huệ Nhân. Vậy nên tôi vẫn đủ tư cách tham gia!
Vô số đệ tử dưới Võ Đang dưới khán đài đều gào to: Có, có chứ!
Lưu Nghĩa và Vạn Vĩnh cùng chạm kiến, sau đó quyết định, lần này mọi người được sử dụng binh khí.
Còn chưa kịp định thần, hai thanh kiếm trong chớp mắt đã lìa khỏi vỏ.
Song tôi nhìn thấy rõ, khi kiếm được rút ra, trên thanh kiếm của Vạn Vĩnh phun ra một vài tia nước nhỏ.
Có độc. Tôi nói với Hỷ Lạc.
Hỷ Lạc nói: Cái gì có độc?
Tôi nói: Trên kiếm của Vạn Vĩnh có độc.
Hỷ Lạc nói: Thật bỉ ổi!
Giờ phút này tôi đột nhiên cảm nhận được sự tin tưởng tuyệt đối của Hỷ Lạc đối với bất kỳ những gì tôi nói.
Sự thật đã chứng minh tôi nói không ngoa, chưa múa được mấy phát, kiếm pháp của Lưu Nghĩa đã hỗn loạn, không còn ra đường hướng gì. Mọi người dưới khán đài đều cảm thấy đúng là thiên ngoại hữu thiên. Lưu Nghĩa ít ra cũng đấu được với sư phụ Huê Nhân không ít hiệp, vậy mà lúc này chưa đến hai hiệp đã bại dưới tay người kia, đám đông bất ngờ hoảng hốt.
Vạn Vĩnh nói: Được rồi, không có ai lên nữa sao?
Tôi nghiến răng nói: Không ngờ hắn lại bỉ ổi đến vậy, ban đầu không nhận ra, còn tưởng hắn là người tốt. May mà chưa có mối thâm giao.
Hỷ Lạc nói: Huynh đừng có định lên đấy nhé.
Tôi nói: Đúng, huynh định lên đó.
Hỷ Lạc nói: Không được, huynh sẽ trở thành đích ngắm của hàng vạn mũi tên mất.
Tôi nói: Không sợ, huynh cũng không muốn làm minh chủ gì hết, cứ lôi tay Vạn Vĩnh này xuống rồi hẵng tính.
Hỷ Lạc nói: Có phải lần trước huynh bất cẩn, bị thua một lần nên trong lòng hậm hực không?
Tôi nói: Không phải, huynh còn thua cả ông lão nữa mà. Chỉ cần còn sống, thắng thua là chuyện nhất thời thôi.
Sư phụ tôi xua tay nói: Đi đi, thứ gì của Thiếu Lâm thì sẽ vẫn thuộc về Thiếu Lâm.
Tôi bước tới phía trước lôi đài, không biết phải lên từ đâu. Người bên cạnh nói: Nhảy lên đi, mọi người đều nhảy lên cả. Tôi lăng người nhảy lên, Vạn Vĩnh trông thấy tôi, hơi bất ngờ một chút.
Tôi nói: Đã lâu không gặp!
Vạn Vĩnh nói: Nghe nói huynh đệ vẫn thường qua lại các thành.
Tôi nói: Việc đó quả thực do bất đắc dĩ. Lần trước đã lĩnh giáo, giờ mong được lĩnh giáo lần nữa, so gì bây giờ nhỉ?