Trương Úy có phần không hiểu: "Tạ đại ca ở trong đó không thấy ồn sao?"
Tạ Thượng nói: "Không hẳn, Thiên âm điểu không mổ vào cây khi không gặp địch nhân, vạn nhất có dã thú tiến vào thì Thiên âm điểu khẽ mổ, ta thổi địch là dỗ được chúng."
Vừa hay một con Thiên âm điểu bay đến, chúng nhân phát hiện thân thể nó nhỏ xíu, không lớn hơn ngón cái nam tử trưởng thành bao nhiêu, lông màu đen nhạt không có gì bắt mắt nhưng lại là loài chim có thể tạo thành đại trận giết người.
"Thật không ngờ thứ này khiến bọn muội suýt nữa mất mạng ở đó." Đường Mật than.
"Đúng, ngàn vạn lần đừng nên coi thường kẻ yếu, chỉ cần họ tích tụ sức mạnh, sẽ tạo thành phản kích kinh hồn." Tạ Thượng nói.
Đường Mật nhớ ra, Tạ Thượng và Trương Úy tuy coi là quen nhau, không đến nỗi vì bí mật phòng ngự của nơi ẩn cư mà coi như không quen, tâm niệm chợt động: "Tạ đại ca không định ở đây nữa hả?"
Tạ Thượng nhìn Đường Mật và Bạch Chỉ Vi, biết hai tiểu cô nương này đều rất thông minh, bằng không năm trước y đã không tắc tị với cả hai, vì thế mà y vốn thích Trương Úy hơn hai cô, giờ thấy Đường Mật nói đúng liền hơi nhíu mày: "Đúng vậy, các vị đến vừa hay, vốn chỉ mấy ngày nữa là ta sẽ đi."
"Tạ đại ca định đi đâu?" Trương Úy hỏi.
"Về Ngự Kiếm đường, ta nhận được tin từ Thục Sơn là Mục Hiển đã khứ thế, họ không tìm được người kế nhiệm, mời ta xuất sơn." Tạ Thượng mỉm cười, xem ra không để tâm lắm đến danh hiệu điện giám Ngự Kiếm đường được người đời tôn kính, khẩu khí tỏ vẻ khó xử.
Đường Mật đâm ra cảnh giác, theo ý thức nhìn những người khác, họ cũng đang nhìn nó, tất cả hiểu nhau nên không nói gì nữa.
Trương Úy cũng ngẩn người, trong óc loáng qua ý kiến từ rút ra từ phân tích hôm trước rằng ai đăng lên ngôi tông chủ hoặc điện giám đều đáng hoài nghi, nhưng gã không muốn Tạ Thượng liên quan đến chuyện này, vội hỏi: "Tạ đại ca năm xưa đã từ nhiệm chưởng môn để quy ẩn, chắc không thích việc thế tục bận rộn, lẽ nào lại chịu xuất sơn?"
Đường Mật nói: "Đúng, kỳ thật mấy người bọn muội cũng muốn xin Tạ đại ca xuất sơn, lúc Mục điện giám lâm chung có dặn thế nhưng dọc đường bọn muội đều cho rằng đại ca sẽ cự tuyệt."
Tạ Thượng tựa hồ không muốn trả lời, đáp hàm hồ: "Ta có nguyên nhân riêng, sau này hẵng nói." Đoạn chuyển sang chủ đề khác, hỏi Trương Úy: "Trương Úy, sao đệ lại biết nửa pho Ma La vũ?"
Trương Úy không hiểu "nửa pho Ma La vũ" là gì, giải thích đơn giản việc học được rồi hỏi: "Tạ đại ca muốn nói rằng Ma La vũ bọn đệ thấy trong đèn chỉ là một nửa pho võ công nào?"
Tạ Thượng đáp: "Có thể nói thế, Ma La vũ là võ công Ma vương sáng tạo ra khi tỷ võ với Đọa Thiên đại nhân, đại nhận cực kỳ tán thưởng pho võ công này, lại được gợi hứng nên sáng tạo ra một pho phối hợp với Ma La vũ. Nhưng đại nhân không đặt tên cho bộ pháp mới bởi hoàn toàn thoát thai từ Ma La vũ của Ma vương, cũng như nửa thân thể khác của một người. Gọi nó là Ma La vũ luôn cũng được." Ngữ khí Tạ Thượng tỏ vẻ coi thường: "Chỉ là người Thục Sơn chúng ta lại kỵ húy cái tên này vì cho rằng Ma la là chướng ngại ngăn cản người ta thành phật, người khai sáng Thục Sơn sao có thể sáng tạo ra võ công này. Đâu ngờ những nhân vật năm xưa đâu có nhỏ nhen như thế, họ mới là những nhân vật phong lưu chân chính."
"Đúng, nếu lúc tỷ võ hai người đó thi triển cả hai pho Ma La vũ thì quả thật thiên y vô phùng, tuyệt thế phong tư đến mức nào nhỉ?" Đường Mật cảm thán.
Nhắc đến việc này, Tạ Thượng rất có hứng, tiếp tục nói: "Ma La vũ trừ bộ pháp khinh linh phiêu dật, lại không tiêu hao nhiều nội lực ra thì còn một nguyên nhân nữa mà được gọi là Ma La vũ. Các vị có nhận ra rằng trong những lúc khẩn cấp, bộ pháp sẽ tự động chuyển thành Ma La vũ không? Còn nữa, dù sử dụng võ công gì, Ma La vũ đều có thể tương thích."
Trương Úy nhận ra quả nhiên như thế. Ví như lúc nãy, vốn gã định dùng võ công Thục Sơn, sau đó chặt nhiều cây, lòng cuống lên, kiếm vung càng lúc càng nhanh, bộ pháp liền biến đổi.
"Đúng vậy, sao lại thế nhỉ?" Gã hỏi.
"Việc đó thì huynh đã nghĩ kỳ rồi, thứ nhất vì không cần nhiều nội lực, mỗi khi khẩn yếu, chúng ta thường tập trung nội lực lên tay, người biết Ma La vũ tất nhiên sẽ chuyển bộ pháp sang. Thứ hai, thoạt nhìn thì phức tạp nhưng mỗi nước của Ma La vũ cực kỳ đơn giản, không xung đột với bất kỳ chiêu thức nào. Con người bị Ma la bất tri bất giác mê hoặc, đặt cái tên này cũng vì nó vô tình len lỏi vào võ công bản môn, dung hợp thành một thể." Tạ Thượng không hề cố kỵ gì, cảm thán trước mặt mấy hài tử: "Ma vương đích xác tài hoa, dù ở vị trí đối địch cũng phải khâm phục nàng ta."
Mấy thiếu niên nhìn nhau, Đường Mật cố ý hỏi: "Tức là Tạ đại ca cũng biết Ma La vũ?"
Kỳ thật đó cũng là nghi vấn trong lòng chúng nhân, ai cũng cho rằng Tạ Thượng dù biết cũng sẽ nói là không, chỉ có Đường Mật hiểu y vô cùng tự thị, chưa biết chừng sẽ không che giấu, quả nhiên y đáp: "Tất nhiên biết chứ, lúc Đọa Thiên đại nhân khứ thế có viết một bức thư cho chưởng môn, điện giám Ngự Kiếm đường cùng các vị tông chủ, trong đó để lại cho chưởng môn và điện giám mỗi người một bộ võ công bí tịch nhằm khống chế lẫn nhau, gộp hai pho lại là Ma La vũ hoàn chỉnh duy nhất trên đời." Nghe đến đây, ngay cả đầu có chậm chạp như Trương Úy cũng hiểu nếu Tạ Thượng tiếp nhiệm chức điện giám thì y là người đầu tiên sau hơn trăm năm được đọc đầy đủ hai bản bí tịch. Gã không giỏi che giấu, vừa nghĩ thế, ánh mắt nhìn Tạ Thượng liền thay đổi.
Tạ Thượng linh mẫn cực độ, nhận ra thần sắc gã biến đổi. Giang hồ xưng tụng y là Ngân Hồ, không chỉ vì mái tóc sinh ra đã bạc trắng mà vì y thông minh, võ công tu vi cực cao, trú nhan thuật hơn người, như thể hồ tiên bất tử. Cũng may y biết Trương Úy tính tình đơn thuần, không bao giờ suy nghĩ theo hướng phức tạp, hiểu gã không chấp nhận được việc chưởng môn Thục Sơn cũng biết Ma La vũ, liền cười: "Thế thì sao, võ công thôi mà, tên có tà một chút thì Đọa Thiên đại nhân cũng không quan tâm."
Đường Mật đại khái đoán ra vì sao sắc mặt Trương Úy biến đổi, sợ gã lỡ lời liền xoa dịu: "Đúng, cũng không sao hết."
Khi Tạ Thượng đi rồi, mấy đứa chụm lại thương lượng, đều thấy rằng không nên hoài nghi Ngân Hồ nhưng tình hình này cần phải cẩn thận, ít nhất trước khi tìm rõ chứng cớ chứng minh Tạ Thượng không liên quan gì đến việc này thì không thể nói gì nhiều. Đặc biệt họ biết có thể Ngọc Diện bị một người biết Ma La vũ hại thì càng phải phòng bị.
Thương nghị xong xuôi, mấy thiếu niên nhìn nhau, chợt nhận ra giờ chỉ có mấy đưa dám hoàn toàn yên tâm tin tưởng nhau. Ngoài trời, màn đêm đã buông xuống tự khi nào, bóng tối đen thẫm như mực len qua khe cửa vào trong nhà, từ từ xâm lấn ánh nến leo lét. Đường Mật nhìn những gương mặt thiếu niên quanh mình, ánh nến chao chát trên từng gương mặt ngây thơ, lòng nó ấm lại: "Kỳ thật cũng chẳng sao hết, có mọi người là đủ rồi."
Các thiếu niên từ biệt Tạ Thượng rồi về Thục Sơn, dọc đường cười nói trò chuyện rất vui vẻ. Điều khiến tất cả đều cao hứng là Đường Mật sau rốt cũng hoàn toàn khôi phục lại dáng vẻ trước kia, ánh mắt không còn nóng lòng mà lấp lánh sáng rực.
Nó thích gọi Hoàn Lan là Tiểu Thúy rồi nói với thiếu niên đang xanh lét mặt mày: "Ngươi xem này, mặt mũi xanh thế kia, đúng là danh phù kỳ thực." Mỗi lần như thế, Hoàn Lan lại giãn mặt mũi ra, bật cười giơ cờ trắng đầu hàng.
Nó cũng hay giả theo cử chỉ lịch lãm của Mộ Dung Phỉ ra rồi nói với y đầy thành thật: "Phỉ quân cư xử gần như hoàn hảo, chỉ có một điểm không ổn khiến người ta cảm thán sao tường trắng lại có vết than."
Mộ Dung Phỉ cười hỏi: "Chỗ nào?"
Nó đưa tay áo che kín nửa mặt, đôi mắt tròn to long lanh chợt hấp háy: "Cười không hở răng, Tiểu Hồng cô nương."
Tất nhiên nó thích nhất là cùng Bạch Chỉ Vi trêu Trương Úy, có mặt gã là nó giả đò gục đầu lên vai Bạch Chỉ Vi tỉ tê khóc: "Tức chết mất, ban nay ta nghe mấy tiểu nha đầu ở khách sạn nói ta là loại nhà quê không cha không mẹ, lấy đâu ra đại tiểu thư không có nha đầu đi theo hầu hạ. Chỉ Vi, ta nhớ cha mẹ lắm, nếu họ vẫn còn thì ta sẵn sàng phản ứng nhưng hiện giờ chỉ biết nuốt giận."
Bạch Chỉ Vi ra vẻ đồng tình, an ủi: "Đừng giận, chi bằng sau này ta giả làm nha hoàn của ngươi."
Nó lắc đầu: "Ngươi là thiên kim đại tiểu thư, bảo ngươi bưng nước rót trà mà làm giống mới là lạ. Người ta còn bảo lấy đâu ra loại tiểu thư mà nha hoàn còn có thần khí hơn chủ."
Trương Úy nghe thấy, trong lòng bất nhẫn: "Đường Mật, hay là ta giả thành đầy tớ của ngươi?"
Nó giả đò lau nước mắt: "Không được, có tiểu thư nào ra khỏi nhà lại mang theo đầy tớ, ngươi phải giả làm nha hoàn."
Trương Úy nghiến răng: "Được."
Nó tức thì hớn hở: "Đồng ý rồi không được nuốt lời nhé, Như Hoa."
Nhưng chỉ Đường Mật biết, càng gần Thục Sơn, nó càng bất an.
Lúc không có ai, nó liên tục móc chìa khóa Mục Hiển để lại ra nắm trong tay, hồi lâu sau mở tay ra, chìa hóa hằn vết lên lòng tay đỏ ửng. Nó dùng ngón trỏ tay kia khẽ vuốt dấu đỏ, không cảm thấy đau mà lòng yên tĩnh lại, biết dù thế nào thì nó cũng nắm trong tay một manh mối hữu dụng.
Nó chỉ không nghĩ thấu là chiếc chìa khóa này mở được vật gì. Theo tình hình lúc đó, Lý Liệt không hề lục lọi khi giết Mục Hiển, cũng có nghĩa rằng đối phương không cần hoặc chí ít không vội lấy được thứ Mục Hiển nắm trong tay. Phía sau chiếc chìa khóa này ẩn tàng điều gì có thể giúp nó giải được câu đố trước khi chết, Mục Hiển định làm gì?
Cuối tháng cả nhóm mới về đến Ngự Kiếm đường. Đại đa số kiếm đồng cũng đã tề tụ. Đường Mật theo chúng nhân đặt chân lên cửa chính Ngự Kiếm đường, trước mắt là một rừng màu trắng. Tuy dọc đường đã biết phải đối diện với sự thật nhưng khí nhìn thấy pha trắng tung bay chiêu hồn cho người chết vì sai lầm của nó, lòng nó lại hối hận khôn nguôi, cúi đầu tránh màu trắng sắc lẹm dưới ánh nắng xuân, mím môi đi về phòng.
Bạch Chỉ Vi nhận ra điều dị thường, đuổi theo nắm tay nó, cũng không nói gì, cùng về Mai uyển.
Trước táng lễ mấy ngày, Ngự Kiếm đường chìm trong không khí bi thương tất bật. Các kiếm đồng đều không cười nói, nhân sĩ võ lâm đến bái tế rất đông, mỗi kiếm đồng đều được giao một việc, ai nấy đều lo hoàn thành việc của mình, gặp nhau cũng chỉ chào sơ qua rồi đi tiếp. Tất cả kiếm đồng đều mặc áo vải gai trắng, càng khiến Đường Mật chìm trong biển màu trắng, có lúc nó đột nhiên thấy nghẹt thở, cơ hồ ngập trong thủy triều đau thương.
Mục Hiển trú trong một tòa viện đơn độc ở phía đông Ngự Kiếm đường. Từ lúc về, nó lén đến một lần, dùng chìa khó mở cửa, trong phòng trần thiết đơn giản, mấy tháng rồi không ai quét dọn, dưới ánh trắng xám bạc thì như phủ lên một lớp tuyết mỏng. Nó tìm kỹ mấy lần mà không thấy vật gì đáng chú ý.
Hôm sau, nó gặp Mộ Dung Trinh Lộ phu trách việc táng lễ, cố ra vẻ tùy ý nói là Ngân Hồ sẽ về, không hiểu nơi ở đã thu dọn chưa. Mộ Dung Trinh Lộ lúc đó mới nhớ ra: "Ờ, bận quá nên ta quên mất, Đường Mật, muội đi tìm mấy tạp dịch quét dọn qua loa đi. Nghe nói trên mình Mục điện giám không mang theo chìa khóa, đi tìm Chúc Ninh nghĩ cách mở ra."
"Lúc đó muội nhặt được vật này trên bãi cỏ, có phải không?" Đường Mật lấy ra hỏi.
Mộ Dung Trinh Lộ liếc nhìn: "Không biết, muội thử đi, đúng thì mau quét dọn, ngày mai Ngân Hồ sẽ tới." Đoạn vội vàng đi mất.
Như thế, nó chính đại quang minh ra vào chỗ Mục Hiển ở ngay giữa ban ngày ban mặt. T.r.u.y.ệ.n.Y.Y.com
Nhưng dù ban ngày ban mặt nó cũng không tìm thấy gì, bất quá nó quen thuộc cơ quan, gõ gõ mọi chỗ xong cảm thấy phía sau giá sách là nơi dễ có cửa ngầm nhất. Giá sách chất đầy, nếu cũng như ngăn kéo ở thực đường, phải đổi vị trí từng ngăn mới mở được cơ quan thì thật sự phiền hà, nó cũng lay lay từng quyển sách mà không thấy cơ uan gì. Nó chợt nghi hoặc, không hiểu Mục Hiển bảo mình đến đây tìm thứ gì.
Nó cầm chìa khóa lên nghịch, nhớ ra Mộ Dung Trinh Lộ bảo mình đi mở khóa, hình như có điểm bất thường, chìa khóa này chỉ làm bằng đồng thông thường, muốn mở loại khóa kiểu này không khó khăn gì, Mục Hiển dùng để khóa những thứ quan trọng thì hơi bất cẩn.
Chìa nếu không hợp với khóa thì còn có tác dụng gì? Đường Mật vừa nghĩ vừa quan sát. Gian phòng này trừ chỗ ngủ và giá sách ra chỉ còn hòm gỗ đàn lớn đựng quần áo và đồ vật linh tinh, nó đã tìm đi tìm lại mấy lần trong đó rồi. Trước giá sách có bày một cái trường kỷ, trên đó trừ bút mực đài nghiên ra không còn gì, bên cạnh là đĩa đèn bằng đồng. Ngọn đèn mang hình dáng người nâng bình nước thường thấy, hai tay giơ lên đỡ lấy thân đèn, giống như hình thiên bình.
Hai từ "thiên bình" lóe qua đầu óc nó, trong lòng sáng lên, chạy đến thử lay động ngọn đèn. Quả nhiên không thể lay động, biết ngay cơ quan ở đó, bèn cho chìa vào đế đèn cao hơn ở bên không có đĩa đèn, đợi một lúc sau mà không thấy động tĩnh gì.
Nó tưởng mình tìm được bí mật mở cơ quan, lợi dụng trọng lượng chìa khóa để đưa "thiên bình" về đúng vị trí, nhưng bây giờ hoàn toàn vô dụng. Nó quan sát đĩa đèn thật kỹ, ánh mắt dừng lại một chút ở đĩa đèn thấp hơn, chợt cầm đế lên, đổ sạch dầu chưa đốt hết đi rồi bỏ chìa khóa vào đế cao hơn, quả nhiên đĩa đèn từ từ dâng lên, đến khi cân bằng với đĩa để chìa khóa thì dừng lại. Rồi tiếng lách cách rất khẽ vang lên, nó quay lại đẩy giá sách, một hốc ngầm xuất hiện.
Hốc ngầm này cực nhỏ, được xây trên tường, bên trong đặt một cái bao vải màu lam, một hộp gỗ nhỏ cũng mấy tờ giấy.
Nó mở bao màu lam ra trước, bên trong đặt một chiếc chìa khóa hình cái lược và hai phong thư. Nó cầm chìa khóa lên, thoạt nhìn là nhận ra để mở địa cung bên dưới chính điện Ngự Kiếm đường. Nó từng nghiên cứu kỹ cái lược tinh thiết của mình, nhận ra răng lược tuy cách nhau không nhiều nhưng mỗi răng đều có khác biệt cực kỳ tinh tế, làm giả không dễ tí nào. Giờ so ra, cái lược của nó nhiều hơn của Mục Hiển mấy răng, hiểu ngay vì sao lão không mở được một số cánh cửa vì những cánh cửa đó cần những răng lược mà chìa khóa của lão thiếu, còn chưởng môn có thể mở được kiếm thất. Còn về ý tưởng của Vương Lẫm để chưởng môn và điện giám khống chế nhau thì nó đoán rằng, chìa khóa của chưởng môn cũng thiếu mất vài răng, mỗi người khả dĩ mở những gian phòng khác nhau dưới địa cung, tất nhiên khả năng lớn hơn là cả chưởng môn và điện giám gộp lại cũng không thể mở được hết mọi khung cửa dưới địa cung, theo ý thức nó sờ lên Vị Sương, biết mình có trong tay chìa khóa mở được toàn thể địa cung.
Nó nhìn hai phong thư trong bao. Bức đầu tiên ghi: "Gửi chưởng môn, điện giám cùng các tông chủ", gợi cho nó nhớ lại lời Ngọc Diện rằng khi Vương Lẫm khứ thế có viết thư cho năm người tối cao ở Thục Sơn, xem ra là bức này. Chữ viết đúng là chữ nó từng thấy, kiểu chữ nghiêng ngả của Vương Lẫm, dặn dò cách điều hành Thục Sơn sau khi ông ta mất. Quả nhiên Vương Lẫm là người không thủ cựu quan niệm môn phái, có một đoạn đại ý rằng người Thục Sơn không nhất thiết phải câu nệ hai chữ Thục Sơn, đến các nước tìm công danh cũng được, tự khai môn lập phái cũng được, Thục Sơn chỉ dạy đệ tử hai chữ "nhân" và "hiệp".
Đường Mật thầm thở dài, tất nhiên hiểu rõ dụng tâm của Vương Lẫm, như thế một là có thể dùng nhân tài giúp rập bốn nước, hai là mọi người Thục Sơn đều mang lòng "nhân hiệp", trên đời sẽ bớt đi không biết bao nhiêu là phân tranh. Chỉ tiếc rằng hiện giờ người Thục Sơn vì thế mà bị cuốn vào vòng danh lợi, e rằng lúc còn sống ông ta không ngờ tới. Xem ra Vương Lẫm đã đánh giá quá cao sức ảnh hưởng của mình, lòng người là vật khó khống chế nhết, nguyện vọng của ông ta chỉ e thần tiên mới đạt thành được. Nó nghĩ vậy rồi đọc tiếp.
Đoạn thứ hai nói về sau khi ông ta khứ thế trăm năm thì dùng cách nào nghênh tiếp chuyển thế của ông ta. Nó đọc đi đọc lại đoạn này vẫn không hiểu. Thứ viết rằng ngày ông ta khứ thế tròn trăm năm, bất luận chưởng môn, điện giám và tông chủ đương thời là ai cũng phải đến Tị thất trên Tịch Chiếu phong, dùng âm dương làm tâm bày Ngũ hành trận, tụ tâm lực và nội lực của năm người vào Âm dương chi tâm cung nghênh ông ta chuyển thế. Đường Mật chưa từng nghe nói đến Tịch Chiếu phong, Tị thất và Âm dương chi tâm, nhưng nó biết điều quan trọng hơn cả những thứ đó là Vương Lẫm sẽ chuyển thế trùng sinh. Tuy việc đó khác xa quan niệm của nó nhưng đành công nhận việc đó có thật, ngày đó đúng vào hai năm trước khi nó đến Thục Sơn, vậy thì Vương Lẫm chuyển thế vì sao lại chết? Nó càng nghĩ càng hồ đồ, đành xem tiếp.
Nội dung đoạn thứ ba cho thấy chính Vương Lẫm cũng không chắc mình có thể chuyển thế không, ông ta bảo hậu nhân rằng nếu dùng cách trong thư mà không đón được chuyển thế thì sau trăm năm, pháp thuật ông ta thi triển để bảo vệ Thục Sơn và khắc chế ma huyết mất tác dụng thì những nhân vật chủ chốt của Thục Sơn dùng sức mình duy trì. Ông ta nói rõ từng điểm kết giới, ở chỗ nào nên dùng pháp thuật nào, đặc biệt nhắc đến khi Thục Sơn nguy vong, dùng mọi cách rồi mà vẫn vô dụng thì đến lăng mộ ông ta tìm cách sau cùng. Tiếp đó là phương pháp vào trong mộ địa.
Nó nhét thư vào bao, xem bức thứ hai. Bức này cũng do vương lầm viết, dành cho điện giám Ngự Kiếm đường, truyền thụ thuật Phách thủy để sử dụng khi cần thiết.
Xem xong mọi thứ trong bao, nó đoán rằng đây là những thứ mỗi điện giám Ngự Kiếm đường giao cho điện giám kế nhiệm, điều kỳ quái duy nhất là nếu đúng như Tạ Thượng nói, pháp thuật để lại phải là pháp thuật lợi hại nhưng thuật Phách thủy chỉ để mở đường dưới nước, lẽ nào có liên quan đến việc ngày đó nó thấy Mục Hiển đi vào cái hồ ở trong rừng Ảo hải? Nó không muốn nghĩ nhiều, mở hộp gỗ ra thấy hai viên Cửu vinh hồi thiên đan, lại đọc mấy tờ giấy, toàn là bút tích của Mục Hiển ghi lại những cảm xúc khi đọc sách. Nó đã ở đây quá lâu mà giấy tờ thì còn nhiều, ngoài những trang được gom lại thành sách thì không thiếu những trang tán loạn, nó không còn thời gian đọc kỹ, cho rằng Mục Hiển cho hết vào mật thất tất phải có nguyên nhân. Tính toán một hồi, nó nhận định nếu lấy cái bao màu lam đi, Tạ Thượng kế nhiệm không tìm thấy nhất định sẽ hoài nghi nó đầu tiên, nhưng bút ký đọc sách là vật riêng của Mục Hiển, nó có thể lấy đi, giả sử không ai biết những thứ này tồn tại, nó lấy đi tất không ai phát hiện.
Tối hôm đó, nó nhân lúc trời tối, lại vào phòng Mục Hiển ở, lén nhát những thứ lão viết lại vào bao rồi đem ra, nhất thời nổi lòng tham, thuận tay lấy cả Cửu vinh hồi thiên đan.