Bán đảo Triều Tiên lúc này cũng đang chìm trong khói lửa.
Năm 1392, tướng quân Triều Tiên là Lý Thành Quế gây chính biến, lật đổ vương triều của Cao Ly U Vương, rồi dưới sự áp bức của các tướng quân, Lý Thành Quế nhận vương miện, lên ngôi vua Triều Tiên. Do thiếu dòng máu vương tộc, Lý Thành Quế phải tìm kiếm tính hợp pháp cho sự thống trị của mình, bởi thế, triều đình mới của Lý tham gia vào hệ thống triều cống trong khái niệm Thiên Mệnh để được nhận sự công nhận của Trung Quốc. Nhưng từ năm 1404, trong cuộc thảo luận với shogun Ashikaga, liên minh Việt – Nhật đã sớm quyết định vận mệnh của hòn đảo nhỏ bé này. Bởi thế, ngay từ đầu năm 1405, hội Liên Việt đã cử một số công nhân biết chế tạo súng hỏa mai sang Nhật dạy người Nhật chế tạo súng, pháo thần cơ, đồng thời Kiên cũng đích thân sang Nhật chỉ dạy cho các chiến binh túc khinh và samurai các chiến thuật sử dụng súng hỏa mai (Thằng này kiếm cớ sang Nhật gặp công chúa Riei thì có). Đến tháng 8 năm 1405, Ashikaga đã nắm trong tay 10 ngàn túc khinh và 2000 samurai sử dụng thành thạo súng hỏa mai.
Ở Triều Tiên, quân Triều tiên tuy đã sớm ứng dụng thuốc súng vào trong quân sự, nhưng chỉ dừng lại ở hỏa xa và hỏa pháo. Người Triều Tiên có một lực lượng hải quân hùng mạnh, vốn phục vụ đế chế nhà Nguyên, sau lại khởi nghĩa về với quân Triều Tiên; cùng một hệ thống pháo đài dọc sông Tumen được trang bị hỏa pháo.
Dưới sự chỉ đạo quân sự của Kiên, đến tháng 8 năm 1405, Ashikaga đã có trong tay 400 ngàn quân chiến binh đã qua tôi luyện (thực tế là 500 ngàn, nhưng 100 ngàn sẽ bị đưa sang Đại Việt làm lính đánh thuê), trong khi đó quân Triều Tiên thì vô kỷ luật, huấn luyện và trang bị kém, được sử dụng chủ yếu cho việc... xây dựng tường thành, còn các tướng leo lên vị trí tướng quân nhờ các mối quan hệ xã hội thay vì khả năng quân sự.
Về trang bị, quân Nhật được trang bị như sau: Túc khinh: Giáo yari hoặc cung chiến làm bằng tre và gỗ kết hợp lại, hoặc súng hỏa mai; 2 thanh kiếm là katana và wakiyashi, samurai: Giáo yari, trường đao naginata, trường kiếm no – dachi, cung chiến hoặc súng hỏa mai; 2 thanh kiếm. Quân Triều Tiên trang bị tệ hơn nhiều, bộ binh triều tiên được trang bị một hay nhiều loại trong số các vũ khí cá nhân sau: kiếm, giáo, đinh ba, cung tên. Người Triều tiên sử dụng một trong những loại cung tiên tiến nhất ở Châu Á lúc bấy giờ là loại cung ghép từ nhiều loại vật liệu được dát mỏng với một đường cong hướng vào trong cho hiệu quả cao nhất. Tầm tối đa của cung Triều Tiên là 450m, trong khi cung Nhật chỉ được 320m. Tuy vậy, huấn luyện 1 xạ thủ có thể sử dụng cây cung này hiệu quả thì vừa lâu lại vừa khó.
Như đã nói ở chương trước, tháng 10 năm 1405, Shogun Ashikaga xuất binh Triều Tiên, 100 ngàn túc khinh, 20 ngàn samurai chia làm 7 cánh quân, từng bước đổ bộ lên đất Triều Tiên. Ngày 23 tháng 10 năm 1405, cánh quân thứ nhất của Konishi Yukinaga gồm 187000 lính đến thành phố cảng Phủ San vào buổi tối. Đây chính là đội quân tiên phong, tiền tiêu của quân Nhật. Thám báo của hải quân Triều Tiên đã phát hiện được hạm đội Nhật Bản, nhưng Nguyên Quân, Thủy quân Hữu đạo của Khánh Thượng tưởng lầm đó là thuyền buôn. Báo cáo sau đó cho thấy sự xuất hiện của 100 thuyền Nhật, khiến vị tướng này nghi ngờ, nhưng ông cũng không ra lệnh gì. So Yoshitoshi, một tướng của Nhật, đã xuống thuyền một mình, lên đảo và yêu cầu người Triều Tiên đầu hàng nhưng bị chỉ huy quân Triều Tiên từ chối. Bởi vậy So Yoshitoshi đã điều binh bao vây Phủ San, trong khi Konishi Yukinaga tấn công trấn Đa Đại gần đó.
Vài trăm lính Triều Tiên đội mũ rộng vành, cầm đinh ba, dưới sự lãnh đạo của một viên trấn thủ, sử dụng cung tên bắn về phía quân Nhật. Nhưng những mũi tên lẻ tẻ đó của quân Triều Tiên không cản được bước tiến của các samurai hung hãn. Quân túc khinh ào ào tràn vào thị trấn, thả sức chém giết, cướp bóc... Lính Triều Tiên khiếp đảm trước sự hung hãn của quân Nhật, quay lưng bỏ chạy. Các chiến binh Nhật đuổi theo đem những người lính này chém chết. Từng đoàn dân chúng Triều Tiên bị trói lại, bịt mắt rồi đưa lên chiến thuyền cỡ lớn chở về Đại Việt.
Sau khi làm cỏ xong trấn Đa Đại, quân Nhật hội binh dưới chân thành Phủ San. Quân Triều Tiên dùng đại pháo, cung tên bắn vào quân Nhật. Yukinaga tung 2000 lính túc khinh dùng hỏa mai lên phía trước, sử dụng hỏa lực đồng loạt bắn chặn quân Triều Tiên, sau đó các samurai và túc khinh bắt đầu bắc thang leo vào trong thành. Quân Triều Tiên cố gắng chiến đấu, nhưng những người lính yếu ớt, huấn luyện kém làm sao có thể ngăn được bước chân các samurai tinh nhuệ người Nhật. Chỉ sau 30 phút giao tranh, quân Triều Tiên hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Quân Nhật lại tiến hành đồ sát trong thành, tiếng khóc than, ánh lửa, tiếng kêu gào vang lên khắp nơi.