Tuy rằng bản thân phi tử không thể tự mình xuất cung, nhưng sai tiểu thái giám ra ngoài đưa một phong thư không phải là việc quá khó, nhất là đối với những phi tử có giao hảo với Hoàng Hậu, thị vệ canh cổng cũng chẳng gây khó dễ.
Tuy nhiên, để tránh phiền phức về sau, ta viết thư cho Tạ phủ nói đại khái về tình hình Tạ Thu Dung, bảo họ không cần lo lắng. Đợi ta viết xong, Tạ Thu Dung cũng mang thư viết cho dì của nàng đến.
“Thế nào, có cảm thấy gì khác thường không?”
Tạ Thu Dung phe phẩy lá thư trước mặt ta, vui vẻ hỏi.
Ta cầm lấy thư, nhìn sơ qua cũng chỉ là thư hỏi thăm sức khỏe bình thường thôi, bèn hài lòng trả cho nàng, cười đáp:
“Rất tốt.”
Thấy Ngọc Thủy đang đứng hầu gần đó, ta tiện tay vẫy nàng lại, đưa thư của Tạ Thu Dung viết cho nàng, ý muốn thử nàng một chút. Đáng tiếc, Ngọc Thủy cầm thư, đọc đi đọc lại, còn xoay ngang xoay dọc, cuối cùng vẫn không nhìn ra cái gì, đành nhăn mày hỏi:
“Nô tỳ không hiểu gì cả. Lữ phu nhân đọc cái này sẽ hiểu sao?”
Tạ Thu Dung thu lại lá thư, cẩn thận nhỏ nến niêm kín phong thư lại, vừa làm vừa nói:
“Như vậy mới lợi hại chứ.”
Ta nhìn bộ dạng đắc ý của nàng ấy, phì cười:
“Chẳng qua chỉ là mực tàng hình, có cái gì mà phải thần thần bí bí.”
Mực tàng hình cũng không phải thứ quá hiếm lạ, Ngọc Thủy nghe qua liền hiểu ra, nhưng vẫn thắc mắc:
“Tạ tiểu thư, người đã dùng mực tàng hình vì sao phải viết thêm nhiều chữ vô nghĩa như vậy?”
Tạ Thu Dung vẫn chú tấm dán miệng phong thư, lơ đễnh đáp:
“Một lá thư không có chữ so với một lá thư đầy chữ, cái nào mờ ám hơn?”
Tạ Thu Dung đã đề phòng trước khả năng lá thư này không đến được tay dì nàng, hoặc trên đường chuyển đi bị kẻ khác xem qua nên mới viết vài dòng thăm hỏi bình thường, sau đó mới dùng mực tàng hình viết xen vào khoảng trống giữa các hàng chữ, cũng có thể là viết ở mặt sau. Như vậy dẫu kẻ lắm chuyện nào nhìn vào cũng không thể nghi ngờ gì. Tạ Ngự sử đào tạo con gái không tệ.
Hai lá thư này ta giao cho Tiểu Phúc Tử tự tay đi giao. Tiểu tử này bình thường hơi nhát gan nhưng đáng tin, làm việc cũng coi là lanh lẹ. Để cho hắn mang thư của ta đến Tạ phủ trước, sau đó đi lòng vòng mua vài thứ lặt vặt rồi mới tới phía nam kinh thành giao thư cho dì của Tạ Thu Dung.
An bày như vậy đã là việc tốt nhất ta có thể làm cho Tạ Thu Dung. Phần còn lại, phải xem dì của nàng – vị Lữ phu nhân lừng danh trong giới thương buôn kia hành sự thế nào.
Mới mấy hôm trước, không hiểu sao Thái Hậu lại gọi Hoàng Hậu đến, trách cứ chuyện phi tử hậu cung lạnh nhạt với Bạch Thường tại, còn nói Hoàng Hậu thiếu trách nhiệm, không lo chu toàn việc trong cung. Nghe nói Hoàng Hậu khi ra khỏi Thuận Ninh cung sắc mặt rất xấu. Vì chuyện này, các phi tử trước nay xa lánh Bạch Thường tại nay cũng phải cắn răng đưa chút đồ đến Vị Tú hiên để tránh tiếng xấu. Ngay cả Triệu Đức phi cũng phái người mang đến mấy chiếc khăn tay. Nghe mà buồn cười, lúc người ta khó khăn hoạn nạn, túng thiếu trăm bề, cho thứ gì không cho, lại cho khăn tay. Triệu Đức phi cẩn thận quá rồi.
Việc này quả là kì lạ. Nhớ lại khi Thái Hậu hồi cung, có cùng phi tử nhiều lần trò chuyện nhưng cũng chưa từng hỏi tới Bạch Thường tại vì sao vắng mặt trong khi trước đây nàng ở phi vị, hẳn là xuất hiện không ít, bà không thể nào không nhớ mặt. Ta còn nghĩ Thái Hậu không thích nàng nên không để tâm, nay lại tự nhiên nhắc đến, lại còn trách cứ Hoàng Hậu. Có lẽ Triệu Đức phi đã tác động ở chỗ Thái Hậu rồi. Thời gian kéo ra quá dài, nàng ta không muốn đợi nữa. Như vậy cũng tốt. Ta cũng muốn dứt điểm chuyện này, sống hay chết đều nên dứt khoát giải quyết một lần.
Chuyện Ngọc Hy giao cho Ngọc Nga điều tra, cuối cùng đã có kết quả. Nhìn đôi vòng ngọc xanh biếc mà Ngọc Nga đưa đến, ta không thể không ngầm tán thưởng. Chất ngọc xanh trong, gân ngọc uốn lượn mềm mại, nhìn sơ qua cũng biết là bảo vật.
Ngọc Nga nhìn ta một lúc, cẩn thận nói:
“Nô tỳ phát hiện thứ này gói kĩ trong khăn lụa, giấu dưới viên gạch lát nền chỗ chân giường của Ngọc Hy. Bây giờ nên làm gì tiếp theo ạ?”
Ta nhấc đôi vòng ngọc lên nhìn cho kĩ, chợt ngửi thấy mùi hương nhàn nhạt tỏa ra mới cầm chiếc khăn lụa gói bên ngoài vòng lên xem. Từ chất vải đến hoa văn thêu bên trên đều là loại thượng phẩm, giá trị không nhỏ. Ngọc Hy không thể có được. Chắc là cũng đến từ một chỗ với đôi vòng, lại còn mùi hương này… Thực sự có chút quen thuộc.
Nghĩ ngợi một lúc, bèn đem vòng gói trở vào khăn tay, đưa lại cho Ngọc Nga, nói:
“Ngươi đưa thứ này cho Ngọc Thủy, bảo nàng ấy đến Thượng Cung cục tìm Tương Huyền, nhờ tra nguồn gốc thứ này.”
Ngọc Nga hơi ngần ngại:
“Vị này đã dám mang vòng ngọc quý giá như vậy cho Ngọc Hy, e rằng vòng ngọc này xuất xứ từ bên ngoài, trong cung không có ghi chép lại đâu.”
Ta mỉm cười:
“Dĩ nhiên! Đã có bản lĩnh mua chuộc người trong cung kẻ khác thì chắc chắn sẽ không bất cẩn dễ dàng lòi đuôi như vậy. Chỉ là… vòng ngọc không tra ra được, nhưng mùi hương trên chiếc khăn này thì chưa chắc.”
Mùi hương trên khăn không quá đậm, nếu không phải khứu giác ta nhạy bén hơn người thì cũng sẽ không để ý đến. Còn Tương Huyền tuy chỉ là người bình thường, nhưng nàng ta làm nữ quan chế hương đã nhiều năm, khứu giác tiếp xúc với vô số loại hương liệu tự nhiên sẽ trở nên tinh nhạy. Mùi hương này chắc chắn không thể làm khó nàng ta.
Mỗi vị chủ nhân ở mỗi cung đều có sở thích về hương liệu khác nhau. Chẳng ai muốn Hoàng Đế ở chỗ mình mà nhớ tới kẻ khác, vì vậy rất ít khi có hai người chọn loại hương liệu giống nhau. Mùi hương trên khăn rất quen, ta hẳn đã ngửi thấy ở trên người vị nào đó, nhất định là trong số mấy người chức vị cao hay cùng tán chuyện ở chỗ Hoàng Hậu thôi, chỉ là nhất thời không nghĩ ra là ai. Chuyện này giao cho Tương Huyền cũng là dùng người đúng chỗ.
“Vâng.” Ngọc Nga kính cẩn gật đầu. “Vậy còn Ngọc Hy…”
“Tạm thời chưa thể xử lí, nhưng cũng không nên để nó đi lại lung tung… Thôi thì lát nữa Tiểu Phúc Tử trở về, ngươi bảo hắn đi tìm Ngọc Hy sinh sự, kiếm cớ gì đó bắt nhốt lại cho ta. Nhớ rằng chỉ nhốt lại, đừng nói đến chuyện đôi vòng ngọc này, cũng đừng để bất kì ai tiếp cận nó.”
Căn dặn Ngọc Nga thêm vài chuyện xong, ta quyết định ăn trưa, nghỉ ngơi sớm. Dẫu sao hôm nay sẽ là một ngày rất dài, nhất định phải dưỡng sức đầy đủ.
***
Đầu buổi chiều, Ngọc Thủy mang chiếc khăn lụa kia đi Thượng Cung cục tìm Tương Huyền, Tiểu Phúc Tử đi tìm Ngọc Hy sinh sự. Sinh sự cũng là một loại bản lĩnh đặc biệt, không phải ai cũng có thể làm tốt như Tiểu Phúc Tử. Việc này giao cho hắn, ta hết sức yên tâm. Người nào việc nấy, ta và Ngọc Nga cũng lên đường đi thăm Bạch Thường tại.
Đi thăm người bệnh đáng lẽ nên cầm theo chút quà cho phải lễ. Thế nhưng Triệu Đức phi đã nóng lòng muốn hạ màn cái bẫy lớn này, ta cũng đành thuận theo, cứ thế tay không ngồi kiệu mà đến Vị Tú hiên.
Vị Tú hiên cách Cẩm Tước cung khá xa. Đi từ đường lớn trong cung, lại qua đường nhỏ, rồi đường nhỏ hơn. Quang cảnh hai bên đường dần dần vắng vẻ, thậm chí còn có cỏ dại mọc um tùm khiến cho ta có cảm giác Vị Tú hiên không còn nằm trong phạm vi hoàng cung nữa.
Đi mãi cuối cùng cũng đến. Vừa bước xuống kiệu, nhìn thấy cánh cổng xiêu vẹo cùng với hàng chữ “Vị Tú hiên” mờ tịt, nét còn nét mất treo hờ bên trên, lòng ta chợt cảm thán, có chút hồi tưởng đến Viên Linh các của ta ngày trước.
Trong lúc Ngọc Nga lấy hồng bao thưởng cho mấy thái giám khiêng kiệu, ta chậm rãi bước về phía cổng Vị Tú hiên. Cánh cổng mục nát bốc mùi ẩm mốc, then cài dường như đã hỏng từ lâu, chỉ khép hờ lỏng lẻo. Ta nhẹ nhàng đẩy cửa tiến vào bên trong, thấy cảnh tượng càng đìu hiu, ảm đạm.
Vị Tú hiên đúng như lời đồn đại, chỉ là một dãy nhà rách nát gồm ba gian phòng nối liền với nhau. Phía trước là một khoảng sân nhỏ. Trên mặt sân, cỏ dại len qua khe hở giữa những viên đá lót, mọc lên thành từng bụi lởm chởm. Trong góc sân, mấy vại nước sành bày ngổn ngang, có cái đã nứt vỡ, lăn kềnh ra như trêu ngươi kẻ khác.
Ta đến đã lâu mà vẫn không thấy bóng dáng nô tài nào ra hỏi han lấy một câu. Ngọc Nga cũng lấy làm bức xúc, bèn gọi lớn tiếng:
“Hòa phi nương nương đến!”
Mãi một hồi sau, mới thấy một cung nữ dáng người thấp bé, cục mịch đẩy cửa căn phòng bên phải dãy nhà, rề rề bước ra. Nhìn thấy ta, cung nữ này hơi ngạc nhiên rồi chậm chạp quỳ xuống, cũng không tạ tội chậm trễ của mình, chỉ nói:
“Nô tỳ thỉnh an Hòa phi nương nương.”
Nét mặt nàng ta uể oải như thể vừa bị đánh thức khỏi mộng đẹp. Ta vừa nghĩ vậy, liền thấy nàng ta che miệng ngáp một cái như thừa nhận suy đoán của ta. Một cung nữ lại có thể an nhàn nằm ngủ vào giờ này quả là hiếm có.
Ngọc Nga thấy thái độ cung nữ này bất kính, định mở miệng trách cứ, nhưng ta đã ngăn nàng lại, hướng về phía cung nữ kia, hỏi:
“Tiểu chủ nhà ngươi đâu rồi? Bản cung đến thăm nàng.”
Cung nữ nghe hỏi, cúi đầu đáp bằng giọng đều đều:
“Bẩm nương nương, tiểu chủ đang ngồi hóng gió ở hậu viện.”
Nàng ta đáp xong liền im lặng, phải đợi đến khi ta đích thân mở miệng bảo dẫn đi gặp Bạch Thường tại thì nàng ta mới chịu đứng lên, uể oải dẫn đường. Trong cung không thiếu những vị chủ nhân thích tỏ vẻ thanh cao lạnh nhạt, khinh thường người khá. Ta nhìn đã quen mắt. Nhưng một nô tỳ mà cũng tâm cao khí ngạo, dám ra vẻ với cả phi tử thế này, ta mỉa mai nghĩ hẳn là chỉ có mình nàng ta.
Cái gọi là hậu viên của Vị Tú hiên thực chất chỉ là một mảnh vườn nhỏ xíu, chung quanh toàn là cỏ dại. Chỗ đất trống duy nhất là bên gốc một thân cây cổ thụ khô héo, cành lá khẳng khiu. Nơi đây bày một bộ bàn ghế đá nhỏ. Khi ta đến nơi, Bạch Thường tại đang ngồi ở đấy, lưng xoay về phía chúng ta.
“Bẩm chủ tử, có Hòa phi nương nương đến thăm người.” Cung nữ kia lạnh nhạt cất tiếng thông báo, dù có thưa bẩm nhưng chất giọng chẳng có chút tôn kính nào.
Bạch Thường tại nghe gọi, giật mình quay lại, như không tin vào mắt mình:
“Nương nương… sao lại đến đây?”
“Nghe nói muội muội không khỏe, bản cung đến thăm muội.”
Ta dợm bước lại gần Bạch Thường tại, kéo gấu váy sang một bên cho gọn rồi ngồi xuống đối diện nàng.
Ngọc Nga hiểu ý, bèn kéo cung nữ kia đi trở ngược ra xa. Ban đầu, cung nữ kia có vẻ khó chịu, nhưng sau khi Ngọc Nga dúi vào tay nàng ta một chiếc hồng bao, nét mặt nàng ta liền chuyển từ cao ngạo thành vui vẻ, còn thân thiện nắm lấy tay Ngọc Nga dẫn đi. Liếc sơ qua ta cũng có thể nhìn thấy sự khinh bỉ hiện lên trong ánh mắt của Ngọc Nga.
Ở phía đối diện, Bạch Thường tại nhìn ta chăm chăm, một hồi sau mới nở nụ cười ảm đạm:
“Đã lâu không gặp nương nương.”
Ta nghĩ muốn rót trà, nhưng nhìn lại bình trà trên bàn đã phủ một lớp bụi mờ, bên trên còn có mấy cái lá khô vướng lại, e rằng rất nhiều ngày rồi chẳng ai động đến, đành thở dài:
“Muội muội đã không khỏe, sao không ở trong phòng nghỉ ngơi mà lại ra đây hứng nắng hứng gió?”
Bạch Thường tại không trả lời câu hỏi của ta, nụ cười trên môi trở nên nhạt nhòa:
“Ngày trước thần thiếp và nương nương không hề qua lại, vậy mà chỉ có nương nương là nghĩ tới thần thiếp, cuối cùng đến bước đường này cũng chỉ có nương nương đến đây thăm thần thiếp.”
Lời này thật chẳng sai.
Ta nhìn nàng, khẽ nói:
“Muội muội đừng bi quan như vậy. Còn rừng xanh lo gì không có củi đốt.”
Bạch Thường tại nghe lời này, chua chát cười rộ lên:
“Nương nương nhìn ta đây, thật sự còn có tương lai khác hay sao?”
Ý cười trên mặt nàng có phần điên cuồng. Giật mình nhìn lại, thời gian trôi qua chưa lâu mà Bạch Thường tại đã quá khác xưa rồi.
Ta còn nhớ ngày đầu đi Triêu Lan cung thỉnh an, lần đầu nhìn thấy Bạch Diệu Hoa là lúc nàng đang nhàn nhã cầm một ly trà. Dáng vẻ nàng ta tuy không phong tình quyến rũ như những nữ tử chung quanh, nhưng bộ dạng đoan trang, hiền dịu lại toát lên khí chất cao quý, khiến người ta yêu mến. Ngày qua ngày, tiếp xúc thân cận với đám người của Hoàng Hậu mới hiểu được, tính cách Bạch Diệu Hoa cũng có vài phần giống với ta, không thích ồn ào tranh đoạt, chỉ muốn an ổn qua ngày. Mà cũng bởi vì như vậy nên hai người bọn ta cứ như hai dòng nước chảy xuôi, an ổn phần mình, không động chạm đến nhau. Trong mắt của ta, Bạch Diệu Hoa chính là hình mẫu nữ nhân hiền đức điển hình, có dung mạo, có hiểu biết, lại ôn hòa an phận. Vậy mà hôm nay Bạch Diệu Hoa tuy vẫn là Bạch Diệu Hoa, nhưng phong thái ung dung tự tại ngày xưa đã chẳng còn. Không còn xiêm y phục sức đẹp đẽ, nàng chỉ mặc một bộ áo váy dài màu xanh đen tối tăm, tóc tai vấn ngược ra sau thành một búi, cài ngang bằng một chiếc trâm bạc trơn dài không họa tiết, có cảm giác như nàng tự mình chải qua loa cho có. Gương mặt tròn trịa tươi tắn nay như khô héo, làn da tái nhợt, gò má hóp vào, lại không có phấn son bù đắp nên trông càng xơ xác.
Ta khẽ nói:
“Trên đời này không có chuyện gì là không thể xảy ra. Đời người ai mà chẳng có lúc thăng trầm.”
Bạch Thường tại cười nhạt:
“Vậy sao? Nghe nói Hàm Nhu trước khi hành hình đã uống thuốc độc tự vẫn, nương nương biết chuyện này không?”
Ta biết, nàng đang trách cứ ta.
“Lấy một cái chết dễ dàng để mua lại chân tướng, muội cảm thấy có đáng không?” Ta hỏi.
Bạch Thường tại nhíu mày:
“Ả sẽ nói thật sao? Không chừng chỉ là quấy quá để cầu được chết toàn thây thôi.”
Lời trước khi chết của Hàm Nhu là sự thật, có điều đó là là “sự thật” mà Triệu Đức phi muốn cho Hàm Nhu biết mà thôi. Nhưng nhờ đó ta cũng nghe ngóng được vài manh mối có giá trị. Dù là vậy, những điều này giải thích ra quá dài dòng nên ta chỉ đáp:
“Hoàng Hậu đã điều tra, trước khi sự việc diễn ra, Hàm Nhu có qua lại vài lần với một cung nữ ở chỗ Tĩnh Tần. Mà sau khi Hàm Nhu chết, cung nữ kia nghe đâu vô ý ngã xuống giếng, cũng chết rồi.”
“Tĩnh Tần? Không thể nào, tuy Tĩnh Tần rất ngang ngược nhưng ta chung quy không có tranh chấp với nàng…”
Bạch Thường tại kinh ngạc thì thầm, như đang cố nhớ lại bản thân đắc tội Tĩnh Tần ở chỗ nào. Ta không đáp, để nàng tự suy nghĩ. Chỉ trong thoáng chốc đã thấy Bạch Thường tại bật cười cay đắng:
“Tĩnh Tần ngang ngược nhưng cũng sẽ không có bản lĩnh một nhát chí mạng như vậy, e là Đức phi nương nương chướng mắt ta rồi… À, mà không, một kẻ nhu nhược như ta thì làm cái gì để Đức phi chướng mắt được chứ? Chung quy cũng chỉ là một con tốt thí mà thôi…”
Nói xong liền buông chiếc khăn vẫn luôn nắm chặt trong tay, để lên bàn.
Ta liếc nhìn mảnh khăn làm từ tơ mỏng như sương, ẩn hiện mấy đóa hải đường rực rỡ thêu ở góc, hiểu ra đây chính là tặng phẩm của Đức phi. Bạch Thường tại mới mười bảy tuổi, rốt cuộc chỉ là một tiểu thư yếu mềm đã quen nhung lụa. Nay tự nhiên bị đạp xuống bùn dơ, một món đồ tinh tế bên người cũng không có. Đức phi lo sợ tặng thuốc hay đồ bổ sẽ dễ bị người ta hạ thủ làm trò không sạch sẽ nên mới ban xuống mấy cái khăn tay vô dụng. Bạch Thường tại đã lâu mới nhìn thấy món đồ tinh xảo xinh đẹp như vậy, khó trách sinh lòng yêu thích. Bây giờ biết ra chính Đức phi hại mình, nàng ta liền ghê tởm buông xuống.
Ta cười nhẹ:
“Những nữ nhân nhỏ bé như chúng ta đều là tốt thí của kẻ khác.”
Bạch Thường tại ngước mắt nhìn ta khó hiểu:
“Nương nương di giá đến đây, không phải chỉ là để nói với Diệu Hoa mấy lời thương cảm này thôi phải không?”
Ta thu lại ý cười trên môi, nghiêm túc nhìn nàng:
“Những con tốt thí như chúng ta sau cùng đều không có kết quả tốt đẹp. Muội cam tâm ngồi ở đây để kẻ khác an bày sao?”
Bạch Thường tại kinh ngạc hỏi:
“Diệu Hoa đã đến mức này… Bạch thị và Hà thị không còn có thể như trước nữa. Lẽ nào Đức phi còn chưa hài lòng?”
Ta thẳn thắn đáp:
“Muội biết Đức phi lâu hơn ta, muội nói xem, Đức phi sẽ dễ dàng hài lòng như vậy sao?”
Bạch Thường tại ngẩn người, sau lại cười chua chát:
“Diệu Hoa chưa chết, Hoàng Hậu chưa bị dồn đến đường cùng, Đức phi làm sao có thể thỏa mãn. Ha… cái bẫy này, ngay từ đầu đã không phải nhắm vào ta… Nương nương ngay từ đầu đã biết phải không? Cho nên mới đưa ta thứ này…”
Bạch Diệu Hoa cúi đầu, lấy trong tay áo ra một gói giấy nhỏ. Đây chính là vật ta lén lút đưa cho nàng khi trước. Bên trong là hai viên thuốc giải độc, tuy rằng không thể giải hết vạn độc trong thiên hạ, nhưng những loại thông thường thì không có vấn đề. Nếu gặp phải loại độc cổ quái gì đó, uống thuốc này vào tuy không thể giải hết độc chất nhưng cũng hóa giải được phần nào, tạm thời có thể giữ lại tính mạng. Lúc đó ta chưa biết kế hoạch của Đức phi, chỉ sợ có điều không hay xảy ra nên vội vã mang hai viên thuốc này đưa cho Bạch Diệu Hoa, bên trong giấy gói ghi vắn tắt “Thuốc giải độc. Có điểm bất thường lập tức uống vào.” Ta không biết Bạch Diệu Hoa có tin tưởng hay không, đưa cho nàng hai viên thuốc này đã xem như tận lực rồi. Bây giờ, thấy Bạch Diệu Hoa lấy từ trong người ra, ta mới thở phào nhẹ nhõm. Nàng ấy không vứt bỏ chúng coi như là tin tưởng ta. Nếu nàng ta thực sự vứt đi rồi, ta cũng vô phương giúp đỡ lần nữa. Loại thuốc này quý hiếm, ta chỉ có năm viên, ba viên kia giữ trong người phòng thân, tuyệt đối sẽ không đưa ra nữa.
“Ngày trước ta sợ có kẻ giở trò hại muội nên mới đưa muội thứ này để phòng bị.”
Bạch Diệu Hoa xoay xoay gói thuốc trong tay, khóe miệng khẽ nâng lên:
“Nhưng xem ra phòng bị thôi là không đủ. Người ta ở trong tối, mình ở ngoài sáng, làm thế nào đề phòng hết cho được?”
Nói chuyện dông dài cả một lúc lâu, cuối cùng cũng nói đến trọng điểm. Ta cười hỏi:
“Đã là như vậy, muội muội có dám đặt cược một ván không?”
Nét cười trên môi Bạch Diệu Hoa càng thêm sâu:
“Đến bước này rồi, Diệu Hoa còn gì mà không dám?”
Ta lắc đầu, nói:
“Lần cược này không phải cược bình thường mà là dùng tính mạng của hai ta để cược. Vạn nhất thua rồi, thì ngay cả mặt trời ngày mai cũng không nhìn thấy được đâu.”
Bạch Diệu Hoa thôi không cười nữa. Nàng nghiêm túc nhìn thẳng vào mắt ta:
“Nương nương đã không sợ, Bạch Diệu Hoa này thì sợ cái gì? Từ lúc bước chân và Vị Tú hiên, ta đã không còn coi trọng sống chết nữa rồi.”
Thân là nữ nhân của Hoàng Đế, dù có chuyện gì xảy ra cũng tuyệt đối không thể tự vẫn vì như vậy là phạm vào tội khi quân phạm thượng, cả nhà sẽ bị liên lụy. Vậy nên có rất nhiều nữ nhân dù bị biếm vào lãnh cung, cũng như Bạch Diệu Hoa khổ nhục, sống không bằng chết nhưng vẫn phải cố sống, vì căn bản ngay cả quyền được tự kết liễu mạng sống của mình cũng không có.
Bạch Diệu Hoa ngừng lại một lát, sau lại nói tiếp:
“Diệu Hoa không sợ chết, nhưng cũng sẽ không để cho kẻ khác tùy ý ép chết mình. Đức phi muốn ta chết, cho dù phải chết, ta cũng sẽ quay đầu cắn ả một miếng thật đau.”
Lời nói cứng rắn cộng với hận ý trùng trùng, hoàn toàn không còn chút gì giống với Bạch phi hiền lành nhu mì ngày trước. Thấy nàng như vậy, ta rất hài lòng, chậm rãi lấy ra từ trong tay áo một cái lọ sứ nhỏ, đặt trước mặt nàng:
“Có lời này của muội muội, ta cũng yên tâm cược mạng mình vào ván cờ này. Chỉ là… có một số chuyện, muội muội cần tin tưởng ta mới được.”
Bạch Diệu Hoa đón cái lọ từ tay ta. Lọ sứ rất nhỏ, khi cầm lọt thỏm trong lòng bàn tay, rất gọn gàng. Nàng mỉm cười:
“Diệu Hoa vô tri mới để kẻ khác thừa cơ giẫm đạp, nay xin nương nương chỉ dạy cho.”