Tắt Đèn Kể Chuyện Ma

Chương 29: Bắt hồn trên âm sơn đạo

Trước Sau

break
Ham sống sợ chết làbản năng của mỗi người, nhưng con người không giống động vật, vì vậy dùlà nói về đề tài này cũng phải thêm chút màu sắc văn chương khiến nỗi sợ hãi cái chết thêm kịch tính.

Một trong số đó là, con người trước khi chết, nằm thoi thóp trên giường, người như cây gỗ nhưng chỉ cần vừa tắt thở, linh hồn liền ngồi dậy, đối mặt với âm sai đến để “dẫn hồn”đang đợi ở đầu giường, chuẩn bị “dẫn giải” lên đường. Mặc dù Phật giáonói chúng sinh bình đẳng, nhưng đã ai nghe nói đến việc đại ca hoạt vôthường đến để bắt hồn con la, con bê, côn trùng bao giờ chưa?

Dẫn hồn cũng là bắt hồn, bắt chính là bắt bớ, hay còn gọi là “giữ” hoặc“thu”, đều là ý thu bắt. Người chết rồi, trên nhân thế không còn vị trícho họ nữa, trong vũ trụ, ngoài hai thế giới âm, dương ra không còn thếgiới thứ ba nào nữa, vì vậy cũng không có con đường thoát nào khác, lúcnày ngoài xuống âm gian ra không biết đi đâu, tại sao dưới âm phủ cònphải cử quỷ sai tới bắt họ đi một cách cưỡng chế như thế? Một cách giảithích mặc dù không được công bố rộng rãi, nhưng lại được rất nhiều người công nhận là, nếu quỷ sứ không đến thăm thì người này nhất định sẽkhông chịu tự giác ngộ quay về. Tiền đề của cách diễn giải này chính là, thế giới dưới kia cần phải có một đại nha môn, âm phủ và địa ngục. Nếuquỷ sứ không đến bắt, người chết rồi, mặc dù đã xuống âm giới nhưngkhông đến quan phủ tự giác “đầu thú”. Cách nói khác gay gắt hơn thì là,nếu như sứ giả âm giới không đến bắt hoặc đứng đó đợi, người này có lẽkhông chịu chết luôn.

Những chuyện như thế này trong thời đạinghĩ rằng linh hồn như khí như khói không xảy ra, người nhẹ nhàng từ từbốc lên, bay lên trên, hoặc theo gió tùy ý đi du lịch khắp đông, tây,nam, bắc, mặc dù không đến nỗi như Nho gia nói rằng tan vào hư không,vậy thì bay lượn mãi như thế cũng chẳng thú vị gì. “Hồn sẽ quay về, vềnơi mình đã sinh ra”, cũng chính là quay về trong phần mộ của tổ tông an nghỉ. Lão tổ tông của chúng ta vẫn sống như thế, sau này lại xuất hiệnmột cái gọi là âm phủ, kết quả tự mình đưa mình vào tròng. Đương nhiên,vào thời đại đã có khái niệm âm phủ, một vài nhân vật chính trong cáccâu chuyện của thời đó vẫn không ngần ngại mà coi thường sự tồn tại củanó, và vong hồn vẫn như khói như khí hoặc như người đi du lịch, đơn độchoặc kết bè kết nhóm ngao du trên con đường đến âm gian, có những ngườichết bao nhiêu ngày rồi mà vẫn còn lang thang trên đường phố, lưu luyếnnơi viện đình, có người thì lại vì nghĩ cho gia đình, nhân cơ hội tinmình chết chưa bị lan truyền ra ngoài, đến cơ quan đơn vị tạm ứng chúttiền lương, còn cả những người khi chết rồi nhã hứng vẫn chưa hết, nhàntản đi trong dòng người, quan sát lễ tang mà bạn bè tổ chức cho mình.Bất đắc dĩ có người sinh ra đã đê tiện, sau khi xác định là chết rồi,không có nha môn quản thúc thì không tự tin, mà khi người thân đốt vàngmã đưa tiền, cũng phải dành riêng một phần cho đại ca áp giải, tự mìnhphải thừa nhận với bố mẹ là phạm nhân bị áp giải. Vì vậy, ở vấn đề này,tôi theo chủ nghĩ duy tâm “tin thì có mà không tin thì không có”, âm phủ địa ngục chỉ dành cho những người tin vào sự tồn tại của nó mà thôi.

Nếu đã tin, âm phủ cũng sẽ rất ghi nhớ những người tin vào sự tồn tại củanó, thời cơ đến, âm sai sớm đã mang theo lệnh bài đợi ở đầu giường rồi.

Nhưng ở đây lại có một điểm khiến người ta không hiểu. Theo cách nói của mộtvài hòa thượng thì con người sau khi chết phải được thần thiện dẫnđường, vậy thần thiện đó hẳn phải là Phật A Di Đà rồi, nghe nói phải dẫn đến thế giới cực lạc. Nhưng trong chùa chỉ có những người vừa phải hành đạo vừa phải tin vào đạo Phật mới có tư cách hưởng thụ, người bìnhthường thì sao? Phật tổ luôn luôn từ bi hỷ xả, con người khi còn sốngluôn được khuyên răn đủ điều, đến khi du hồn rời xá, như lúc cần thantrong tuyết lạnh, chắc chắn ngài sẽ không buông tay bỏ mặc Faust[1]trước khi chết như Chúa, Chúa chẳng phải còn sai thiên sứ xuống hạ giới, cùng với đám ma quỷ tranh giành linh hồn của anh ta hay sao? Nhưngtrong những câu chuyện mà các hòa thượng kể thì Phật tổ Như Lai hình như lúc này trốn đi như không phải việc của mình vậy. Cho đến khi linh hồnđáng thương mặt nhăn mày nhó chuẩn bị xuống địa ngục chịu hình rồi, bỗng xuất hiện một Địa Táng Bồ Đà, lại cũng chỉ là một người trợ giúp hằngngày cùng đốt hương niệm Phật, những cái khác không nói, gì mà những lời to tát như: “Địa ngục không trống, thề không thành Phật”, gào bao nhiêu năm thực ra cũng chỉ là bảo vệ chính mình mà thôi. Nếu lấy những câuchuyện này ra để giải thích, các hòa thượng hằng ngày khuyên chúng tanên đốt nhang niệm Phật, rõ ràng cũng chỉ là một loại phí bảo hộ màthôi. Hình tượng vĩ đại huy hoàng của Phật trong lòng tôi đã bị bóp méotrong lời kể của các hòa thượng rồi.

[1]. Faust: là một trongnhững nhân vật có thực được truyền thuyết hóa nhiều nhất, rồi đi vào đủloại hình cũng như thể loại văn học nghệ thuật và hiển nhiên sống mãitrong xã hội loài người. Trong nhiều thế kỷ, sự tồn tại của tiến sĩFaust đã không bị nghi hoặc gì nữa, sự tồn tại vừa trong thực tế vừa qua vô vàn giai thoại. Tương truyền ông sinh khoảng năm 1480 ở Knittlingen, xứ Wurtemberg, thuộc CHLB Đức hiện nay.

Chuyện này quả thật cóchỗ khiến người ta nghĩ không thông, cuối cùng đành phải suy đoán nhưsau, Chúa Trời ở phương Tây và Hàn Đán đối lập với nhau mà Phật giáo vàâm phủ của Trung Quốc lại chung một nhà. m phủ chỉ là công ty con củaPhật giáo, giữa hai bên không những không có sự cạnh tranh mà còn hỗ trợ cho nhau rất nhiệt tình. Điều này liên quan đến nguồn gốc về âm phủ của Trung Quốc và quan hệ của Phật giáo, tôi chuẩn bị thảo luận sang một đề tài khác, ở đây chỉ nói đến chuyện Diêm Vương dưới cửa Phật môn sai quỷ sứ lên dương gian dẫn hồn thôi.

2

Người ta thườngnói: “Không làm việc gì xấu thì không sợ quỷ tới nhà gõ cửa.” Việc bắthồn của quỷ sứ, dù bạn có làm việc gì xấu hay không, đúng giờ là đến,giống như câu nói: “Diêm Vương đã định canh ba phải chết, sao dám giữngười đến canh năm.” (Có thể giữ người đến canh năm không là một câuchuyện khác, nhưng canh ba nhất định quỷ sứ sẽ đến.) Hơn nữa, quỷ sứ bắt hồn cũng là đại diện cho quan phủ đi bắt giải nghi phạm nên không có gì phải khách khí. Mặc dù tội của người bị bắt phải tới khi gặp Diêm Vương phán quan mới có thể định được, người đó có thể là người tốt, có thể là do bị người khác ám hại, nhưng trong thông lệ dân gian Trung Quốc từxưa tới nay luôn là “nghi phạm có tội” (đối với một vài nhân vật đặcbiệt thì cũng có trường hợp “nghi phạm vô tội”), còn sau khi đến âm gian rồi thì “không có tội cũng thành có tội”, dùng một câu nói thường đượcnghe thấy khi thực hiện phong trào “bốn sạch”[2] thì là “có tội haykhông có tội cứ đánh ba gậy trước đã”, cứ bắt đến, đánh cho một trận rồi nói sau, vậy là gậy gộc, xích sắt chính là những công cụ cần có mỗi khi quỷ sứ lên đài, còn vong hồn ngay từ đầu đã là tội phạm.

[2].Bốn sạch là sạch trong chính trị, sạch trong kinh tế, sạch trong tưtưởng, sạch trong tổ chức. Đây là hoạt động được tổ chức từ năm1963-1966 ở nông thôn và các thành phố nhỏ của Trung Quốc.

Chúng ta bắt đầu từ phương pháp đơn giản thường thấy và cũng là phương phápkhách khí nhất, đó là truy đuổi. Trong quyển một cuốn Khuê Đông Chí củaQuách Tượng đời Nam Tống có kể về một vị đại phu chuyên chữa bệnh chotrẻ em người Tín Châu tên là Sái Mỗ, lâm bệnh mà chết. Ông ta có mộtngười đồng hương lúc này đang làm việc ở Lâm An, trên đường lớn gặp SáiMỗ, để đầu trần không mũ nón gì cả, “có hai vị mặc áo vàng đuổi theosau.” Khi người đồng hương này về quê, mới biết Sái Mỗ đã chết, và chếtđúng vào ngày mà ông ta gặp Sái Mỗ trên đường, nên biết rằng lúc ấy mình đã gặp linh hồn Sái Mỗ, còn hai vị mặc áo vàng kia chính là quỷ sứ.

Nếu đã là “truy đuổi” thì việc động chân động tay là khó tránh, còn có cầmgậy vụt hay không, hoặc vong hồn trên người có công cụ thụ hình nàokhông, trong này không thấy nói đến, chỉ có thể tả sơ qua về quang cảnhbắt phạm nhân thời Nam Tống để chúng ta cùng so sánh.

Việc ĐổngSiêu, Tiết Bá áp giải Lâm giáo đầu thì có chút cực đoan, không lấy làmđiển hình thì cũng thôi, nhưng gậy thủy hỏa của quỷ sứ áp giải có lẽ làcông cụ không thể thiếu, không thể chỉ mang hai tay không đi như nhữngtên trộm gà để “đuổi gà” được.

Tôi cũng đã từng được trải nghiệmcảm giác bị “đuổi” này rồi, đương nhiên không phải quỷ sứ của âm phủđuổi. Năm đó, ga tàu hỏa phải xây lại nên những khách đợi đi tàu đànhphải xếp hàng hỗn loạn và ồn ào, nhân viên nhà ga cầm một chiếc cờ đỏđứng phía trước, làm người dẫn đường đi vào ga, nhưng khách đi tàu không hiểu ý đồ của anh ta, lá cờ đỏ đó chỉ cần cuộn vào, trở thành một cáiroi có tính chất tượng trưng, nhằm vào cánh tay, mông của những hànhkhách không đứng đúng hàng mà đánh, vì ngày đó mọi người đều mặc áo bông nên không ai bị đau. Hơn nữa, nếu nghĩ đến cái gậy thủy hỏa mà ĐổngSiêu, Tiết Bá dùng để đánh vào khớp xương của Lâm giáo đầu (vừa tiếtkiệm sức vừa hiệu quả) thì sẽ cảm thấy dịu dàng, quan tâm hơn, vì vậy có người còn toét miệng cười với người đánh mình, tỏ vẻ hiểu ý của vạntuế.

Khiến người ta càng khó chịu hơn cả là một quỷ sứ túm tóc đi trước, một quỷ sứ cầm gậy đánh đằng sau.

Trong quyển một Triều dã thiêm tái của Trương Trạc người đời Đường có viết:

Thời Võ Tắc Thiên, Phượng các đãi lang chu Duẫn Nguyên vào buổi chầu sớm.Thái Bình công chúa gọi thầy thuốc đi vào chính cửa, thấy một tên quỷ sứ bắt giải Chu Duẫn Nguyên, tên thứ hai cầm gậy theo sau, đi thẳng vàoCảnh Vân Môn…

Vị thầy thuốc này có bản lĩnh nhìn thấy ma, vì vậymới có thể nhìn thấy cảnh đại thần bị quỷ sứ bắt đi. Bình thường, khinhững lão đại thần trong triều đình ra khỏi cửa, trong nghi thức khôngthể thiếu những cây gậy hoặc màu đỏ hoặc màu trắng hoặc ngũ sắc dùng đểđuổi đám dân đen, nhưng lúc này, cây gậy lại rời vị trí ra sau môngmình, đổi thành đánh chính mình. Cách túm tóc kéo về phía trước đấy thực sự khiến những nhân vật lớn có chút mất mặt, vì sợ đau nên hai tay phải ôm đầu, điều đó cũng có nghĩa là phải cúi đầu xuống, tư thế không đượcđẹp mắt cho lắm.

Đến thời nhà Thanh, đàn ông thường để tóc đuôisam, như vậy khi bị bắt sẽ càng dễ dàng hơn, tức là vừa không bỏ khóasắt, vừa coi túm tóc là một thủ đoạn đơn giản, hiệu quả. Khi Mậu Tuấtlục quân tử[3] bị bắt, bị binh dịch túm tóc lôi đi, Đàm Tự Đồng đã nói:“Cả đời ta là văn nhân, lại có chức quan, hà tất phải làm thế này!” Binh dịch đáp: “Bọn ta vâng lệnh nha môn bắt người, từ trước tới nay vẫnthế.” Trong giới quan phủ Trung Quốc, thấp thì Địa bảo[4] mà cao thìHoàng thượng, cách cư xử với “nghi phạm” từ trước tới nay vẫn dùng những thủ đoạn hạ lưu bỉ ổi và man rợ như thế, cậy quyền thế nhất thời, không bỏ qua bất kỳ cơ hội nào để làm nhục nhân cách người khác. Túm tóc,trói bằng dây sắt, thậm chí là đội mũ cao đi diễu khắp đường khắp chợ,không phải sợ nghi phạm không nghe lời hoặc chạy mất, thực ra là thíchthú trong trong việc hủy hoại nhân cách của người ta, từ đó thể hiện uyphong lưu manh, độc ác của mình. Từ điểm này có thể thấy, cách cư xử của người đứng trên vị trí cao nhất với đám quan binh, tướng tốt cũng chẳng khác nhau là mấy.

[3]. Mậu Tuất lục quân tử: chỉ sáu chí sĩ DuyTân bao gồm Đàm Tự Đồng, Khang Quảng Nhân, Lâm Húc, Dương Thâm Tú, Dương Duyệt và Lưu Quang Đệ, cả sáu người đều bị sát hại trong phong trào cải lương chính trị của giai cấp tư sản năm 1898 (tức năm Mậu Tuất), còngọi là biến pháp Mậu Tuất hay Mậu Tuất Duy Tân.

[4]. Địa bảo: chức quan địa phương ở thời nhà Thanh và những năm đầu dân quốc.

Sự thực chứng minh không chỉ có chó cậy chủ nhà, mà người cũng cậy thếchó, không có mấy tên chó săn giơ nanh múa vuốt kia làm thay thì đámThái thượng hoàng, Lão Phật Gia cũng xông ra làm chó không chừng.

3

Vậy khi bắt hồn, “chúng sinh có bình đẳng” không?

Những chương trước chúng ta nói đến những quỷ hồn bị bắt, có bách tính bìnhdân, có gia đình giàu có, quyền thế, dường như tất cả đều bình đẳngtrước cái chết, ngay cả đến Phượng các đãi lang chẳng phải cũng bị túmtóc kéo đi đó sao? Vị Chu Duẫn Nguyên trong lịch sử hoàn toàn không làmviệc gì ác, còn được nhận lời khen của người khác, vì vậy khi ông ta bịbắt đi, bị ngược đãi như thế hoàn toàn không phải vì ông ta mắc tội ácgì đặc biệt, chỉ là vì Diêm Vương khi đó còn chưa có sự phân biệt, giống như trong Sưu Thần ký mà Cam Bảo đã nói: “Khi chết không được đối đãitử tế như khi sống”, “khi sống vì khanh tướng tử tôn, chết xuống dướiđất thì thái sơn ngũ bá, tiều tụy, khốn khổ, không thể kêu ca” mà thôi.Nhưng trong những câu chuyện về sau, quan tướng có thân phận rõ ràng khi bị bắt đi, có chút khác biệt so với bách dân trăm họ.

Tôi đãtừng giới thiệu qua, khi bắt hồn của bách tính thì đúng sách bắt hồn,nhưng đối với những nhân vật chức sắc quan tước thì phải bao phòng nhưđi xem kịch vậy, cũng phải viết một lệnh bắt riêng, mặc dù cùng là cáichết, nhưng quy cách viết lại như viết “giấy mời”.

Từ xưa tới nay vẫn luôn có quan niệm, đương nhiên quan niệm đó không phải xuất phát từ bách tính bình dân mà là từ trên truyền xuống, tức là những người làmđế vương, tướng quân đó đều có lai lịch. Quan niệm này tới thời Đườngcàng phát triển mạnh hơn, có lẽ cũng có sự giúp đỡ của Phật giáo và Đạogiáo, giống như những gian thần Lý Lâm Phủ, Lô Kỷ, đều là sinh có tiêncốt, nếu không làm thừa tướng thì có thể làm thần tiên. Đặc biệt là đếnthời Bắc Tống, những danh công cự khanh, nếu không phải là tinh tố hạphàm thì là thần tiên chuyển thế, thấp nhất thì cũng là tinh quái đầuthai. Trong Tiền thị tư chí do Tiền Thế Chiêu thời Bắc Tống viết: “TừThần ông đi từ Hải Lăng (nay là Thái Châu Giang Tô) đến kinh sư, SáiKinh nói với Từ Thần Ông rằng: “Mong cho thiên hạ thái bình.” Thần Ôngđáp: “Thái bình cái gì? Các loại ma quỷ trên trời xuống hạ giới, đầuthai sống trong nhân gian, làm hỏng thế giới.” Sái đáp: “Làm thế nào đểnhận ra người này?” Thần Ông cười: “Thái sư chính là một trong số họ.”Vì vậy, cái chết của họ chẳng qua là “trở về nơi cũ” mà thôi.

Đại quan đã như thế, nếu là hoàng đế thì khí phái càng lớn, cho dù vị hoàng đế này có chết bất đắc kỳ tử. Trong quyển một Tục huyền quái lục của Lý Phục Ngôn người đời Đường có truyện Tân Công Bình thượng tiên, ghirằng: “Hồng Châu Cao An huyện úy Tân Công Bình, Cát Châu Lỗ Lăng huyệnúy Thành Sĩ Liêm, cả hai người ngày cùng vào kinh cuối năm TrinhNguyên[5], trên đường làm quen với một người, tự xưng là Vương Trăn, làminh sử, đang đi về Trường An để nghênh đón “Thiên tử thượng tiên”. mbinh nghênh tiếp đó là “giáo mã ngũ bách, tướng quân nhất nhân”, ngườithường không nhìn thấy được, mà Vương Trăn lại là minh quản quản lý sổsách dưới âm phủ, có lẽ chính là “phán quan” mà hậu thế hay nhắc đến.Tân Công Bình cùng với đội âm binh đó đi từ Thông Hoa Môn vào thànhTrường An, đến đường Thiên Môn, có thần tiên địa phương cung kính tiếpđón, sau đó binh chia làm năm đội, tướng quân, phán quan và thân binh ởmiếu Nhan Lỗ Công. Vài ngày sau, tướng quân nói: “Thời gian đã đến,nhưng trong cung có chúng thần tương hộ, không cách nào tiếp cận đượcHoàng thượng thượng tiên, làm thế nào bây giờ?” Vương phán quan nói: “Ta có thể trình xin với minh phủ, bố trí sắp xếp yến tiệc trong cung,trong yến tiệc sẽ có bố trí, khi ấy chúng thần tự nhiên sẽ từ chối, đólà lúc ta hành động.” Không lâu sau, dưới âm phủ báo lên, trong cungđang chuẩn bị yến tiệc. Thế là năm trăm âm binh, ba trăm người cưỡingựa, còn lại đi bộ, khi vào cung thì phân nhau đi vào từ rất nhiều cửakhác nhau, sau đó tướng quân ra lệnh bố trí quân dưới đại điện. Lúc nàychỉ thấy trong đại điện đèn đóm sáng rực, véo von tiếng hát, réo rắttiếng đàn. Đến canh ba, đột nhiên có một vị thần tướng mạo hung hăngxuất hiện, tay cầm thanh mâu dài hơn trượng cúi người trước mặt tướngquân, chậm rãi nói: “Thời khắc đã đến rồi!” Tướng quân khẽ chau mày, gật gật đầu, hung thần đó vâng mệnh, đi nhanh lên điện, thẳng tới ghế ngồicủa hoàng đế, quỳ xuống. Đương nhiên đây là ám thị cho việc thích sát.Lúc này chỉ thấy đám quần thần bên cạnh hoàng đế hỗn loạn. Hoàng đế nóiđau đầu, tiếng hát tiếng nhạc lập tức dừng lại, tả hữu hai bên vội dìuhoàng đế về căn phòng ở phía tây. Một lúc lâu sau, không thấy hoàng đếra, lúc này tướng quân nói: “Thời khắc thăng thiên giới hạn, không thểđể lỡ, xe ngựa đã chuẩn bị xong, sao vẫn chưa manh động?” Có người đáplại: “Hoàng thượng đang rửa ráy.” Tướng quân nói: “Được, tắm rửa xongkhởi giá.” Ngay sau đó, từ trong căn phòng phía tây vọng lại tiếng nướcchảy. Đến canh năm, hoàng thượng lên kiệu, phía sau có sáu người mặc áoxanh đi theo, trên mình đều thêu long phượng, khênh kiệu xuống dướiđiện. Tướng quân hành lễ, hỏi: “Việc ở nhân gian phức tạp, vất vả cựckhổ, lại thêm điều tiếng nóng cả tai, yêu sắc cám dỗ, làm hỏng sự thanhtịnh đã tu dưỡng bấy lâu, còn có thể phục hồi được không?” Hoàng đế đáp: “Trái tim chứ có phải sắt đá đâu, nhìn thấy có thể không rung động sao? Nay phải rời đi, thế cũng đã là xấu rồi.” Tướng quân cười, liền đi lên, cúi người hành lễ rồi dẫn hoàng đế ra khỏi cung, từ nội cung cho đếnquan sử không người nào là không nghẹn ngào đưa tiễn, lưu luyến khôngrời. Qua chính điện, hai trăm kỵ sỹ dẫn đường, ba trăm kỵ sỹ hộ tống,như phong như lôi, nhẹ nhàng lướt đi, rời khỏi Vọng Tiên Môn.

[5]. Năm Trinh Nguyên ở thời nhà Đường.
break
Chỉ Yêu Đỗ Nhược
Sắc, Sủng, Kiều nữ,Thanh niên nhà nghèo cao lãnh
Nuôi thú cưng (NP hiện đại H)
Ngôn tình sắc, NP hiện đại H
Cùng Trúc Mã Luyện Tập Kỹ Năng
Ngôn tình Sắc, Sủng
Trước Sau

Báo lỗi chương

Ngôn tình sắc Đam mỹ sắc