Nếu như bỏ qua nhữngbàn tán lạ lùng về ba hồn bảy phách, vậy thì con người sau khi chết,linh hồn tất sẽ rời khỏi thể xác của người đó, xuống Hoàng Tuyền hay vào trong mộ, bất luận là đi đâu, tóm lại phải có một chỗ để quay về. Nhưng linh hồn lìa khỏi xác không có nghĩa là người đó nhất định sẽ chết, đôi khi linh hồn vẫn duy trì một mối liên hệ hoặc mạnh hoặc yếu với thể xác của nó, còn bản thân nó tự duy trì trạng thái hoặc âm hoặc dương. Đương nhiên, ngoài linh hồn của thần tiên có thể tự do ra vào thể xác bất cứlúc nào, khoảng cách giữa hình (thể xác) và thần (linh hồn) này, đối với cả hai mà nói đều là chuyện bất đắc dĩ. Cách linh hồn thoát khỏi thểxác ôn hoà nhất có lẽ là trong giấc mơ, mặc dù con người khi mơ chưachắc tất cả đều mộng hồn xuất khiếu (hồn rời khỏi xác), “tứ mộng” đượcliệt kê trong sách Phật, đa phần đều là hư chứ không thực còn thuyết“lục mộng” của Trung Quốc cổ đại, mặc dù không nói rõ là thực hay hư,nhưng bất luận là chính mộng, hỷ mộng hay ác mộng, cụ mộng (giấc mơ sợhãi) thì thứ mà con người chú ý chính là điềm báo trong giấc mộng đó,còn việc xuất nhập hành tung của nhân vật chính thì không ai quan tâm.Ngoài cách này, những lần hồn thoát xác đa phần đều có chút kịch liệt,đau đớn, ví dụ nếu nguyên nhân thoát xác xuất phát từ sự cố hoặc mộtloại bệnh nào đó, đại loại như kiểu bị sợ hãi, ngất xỉu, hay những kẻham tiền ham chức dẫn đến mắc bệnh thần kinh. Tóm lại, hồn lìa khỏi xác, xác không có hồn, một thứ thì lang thang khắp nơi, một thứ thì vô trivô thức, khoảng cách giữa hình và thần, đối với chủ nhân mà nói đúng làmột việc bất hạnh. Nhưng thực ra cũng chưa chắc đã hẳn như thế, chuyệngì cũng có hai mặt của nó, linh hồn đang phiêu du khắp nơi, có thể nóilà không có nhà để về, nhưng cũng có thể nhận định rằng nó không bị giam hãm nữa. Mặc dù đột ngột mất đi sự bảo hộ của cả hai thế giới âm vàdương, nhưng cũng có thể lý giải là nó không còn chịu sự kìm kẹp, quảnthúc của hai thế giới đó nữa. Thế là hồn lúc này trở thành một kẻ langthang, một độc hành hiệp, một chú dê nhỏ bị lạc đường, thành con chimưng khoẻ mạnh sổ lồng, thành yêu tinh phụ thuộc vào các loài khác nhau,thành thần tiên du ngoạn khắp nơi, cảnh do tâm tạo, tâm trạng biến đổitheo hoàn cảnh, thế nào cũng được. Như vậy, trong những câu chuyện vềthế giới u minh sẽ xuất hiện những tình tiết ly kỳ do rất nhiều linh hồn đóng vai chính. Nói không cũng vô nghĩa, chi bằng kể một câu chuyện.
Những câu chuyện hồn lìa khỏi xác thì muôn hình vạn trạng, nhưng chung quylại, có thể thu về hai dạng chính, một là “Trang Sinh hoá điệp”, hai là“Sảnh Nương ly hồn”. Dạng đầu tiên là kể về những linh hồn sau khi thoát xác đã biến mình thành loài khác, dạng thứ hai là những linh hồn đi vềmột mình, nhưng cũng tương đồng với những dạng tạm thời thoát khỏi sựràng buộc của thể xác.
Nếu cảm thấy chán ghét với cái vỏ cũ củachính mình, tạm thời thay đổi khẩu vị cũng không phải là không hay, cóđiều du hồn vô căn, lang thang theo gió, nếu vô tình bay lạc vào bàntiệc hoặc nơi vẩn đục thì khẩu vị đó vô cùng khác biệt.
Trongtruyện Tiết Vĩ, quyển hai Tục huyền quái lục do Lý Phục Ngôn người đờiĐường viết về chi huyện huyện Thục Châu Thanh Thành tên là Bộ Tiết Vĩ,bệnh nặng bảy ngày, đột ngột qua đời, nhưng tim vẫn còn ấm, người nhàkhông nỡ nhập quan, ngồi xung quanh hầu hạ. Hơn hai mươi ngày sau, TiếtVĩ đột nhiên thở dài một tiếng, rồi đứng lên, nói: “Các ngươi mau đi xem mấy vị đồng liêu của ta có phải họ đang ăn cá không? Nếu đúng thì yêucầu họ dừng đũa ngay, mau mau tới đây nghe ta kể chuyện lạ.”
Người hầu đi xem, quả nhiên không sai, mấy vị đồng liêu lập tức đi theo họ.Tiết Vĩ nói: “Con cá mà các vị ăn, có phải là con cá do gác cổng TrươngBật mua về không?” Mọi người đáp phải. Trương Bật cũng đến, Tiết Vĩ liền hỏi anh ta: “Khi ngươi mua cá, người đánh cá Triệu Can có phải đã giấucon cá to nhất đi, chỉ mang ra những con cá nhỏ, sau đó ngươi tìm đượccon cá to đó ở trong đám lau sậy, mang nó về nha nội, rồi giao cho đầubếp Vương Sĩ Lương giết thịt đúng không?” Trương Bật nói không sai. Mọingười hỏi: “Sao ngài lại biết những chuyện này?” Tiết Vĩ đáp: “Con cá to mà các người giết đó chính là ta!” Rồi ông ta kể lại câu chuyện mìnhbệnh nặng, sốt cao, mộng thấy hồn xuất ra, chỉ muốn tìm một nơi mát mẻđể gửi gắm, liền đi ra ngoài thành, muốn “trải nghiệm cảm giác chim trời cá nước”. Ông ta vào rừng sâu, thấy đầm nước mênh mông, đột nhiên nảyra suy nghĩ, lại thêm sự mời gọi của đàn cá dưới đầm, liền hoá thânthành cá. Thế là lượn theo sóng nước, thảnh thơi không ai bằng, tamgiang ngũ hồ, bay nhảy khắp nơi. Nhưng vì Hà Bá phân chia phía đông đầmcho cá chép, nên mỗi khi chiều xuống, nhất định phải quay về. Vừa đóivừa khát, không xin được cái ăn, ông đi tìm thuyền, thấy Triệu Can đangcâu cá, ngửi thấy mùi thơm, biết là tai hoạ nhưng vẫn mắc câu. Mặc ôngta có kêu gào thế nào, Triệu Can cũng như không nghe thấy, lại dùng mộtsợi thừng quấn chặt, ném vào giữa đám lau sậy. Sau đó lại bị Trương Bậttìm thấy, xách về bếp. Vương Sĩ Lương đặt ông ta lên thớt, mấy ngườiđứng bên cạnh xem, chỉ trầm trồ khen con cá to quá. Ông ta vừa khóc vừagào, người khác đến nhìn cũng không thèm, cho đến khi Vương Sĩ Lương một dao bổ xuống, chặt đứt đầu cá, ông ta mới giật mình tỉnh mộng.
Hồn rời khỏi thân xác hoá thành cá, có thể du ngoạn ba sông năm bể, mặc dùcuối cùng phải chịu một nỗi sợ hãi lớn nhưng cũng đã được trải nghiệmcuộc sống của một chú cá. Trong Liêu trai có chuyện Ấp nhân[1], khôngbiết có phải phóng tác theo nội dung của truyện trên hay không, nhưngvới cấu trúc tương đồng đã viết một câu chuyện phản biện, mặc dù khôngdài nhưng sức hấp dẫn lại vượt trội câu chuyện trước. Truyện này kể vềmột tên vô lại trong chợ, bị hai người không biết là người hay ma bắtmất hồn, thấy trong quầy bán thịt có treo một tảng thịt lợn, liền nhéthồn hắn ta vào trong đó. “Người đồ tể chặt thịt bán, vung dao cắt xẻo,cắt tới đâu y thấy đau tới đó, buốt tới tận xương tuỷ. Sau có ông lãohàng xóm tới mua thịt, cò kè trả giá, hết đòi thêm mỡ lại cắt thêm nạc,cho tới khi cắt vụn cả miếng thịt ra, thêm muôn phần đau đớn. Khi bánhết thịt, tự khắc sự đau đớn đó cũng hết.” Khi bán miếng thịt cuối cùng, hồn của tên vô lại kia mới coi như được giải thoát. Bồ Tùng Linh tỏ rađắc ý với tình tiết câu chuyện đầy thú vị của mình: “Trong một buổi sáng mà trải qua một phen bị tùng xẻo như thế, há chẳng rất kỳ lạ haysao!”[2]
[1] ‘Ấp nhân’: hay có nơi còn đặt tên là ‘Người trong huyện’.
[2] Nhưng cũng có thể Bồ Lưu Tiên (tên tự của Bồ Tùng Linh) lấy cảm hứng từ nội dung câu chuyện ‘Lô Nhiễm hoá cá’ trong quyển ba của tập ‘Tây dương Tạp trở’. Đấy là một phiên bản khác của truyện Tiết vĩ, nhưng có thêmtình tiết về trừng phạt. Lô Nhiễm trong câu chuyện bình sinh rất thíchăn cá, kết quả có một ngày anh ta cũng biến thành cá, và đích thân trảinghiệm quá trình bị con người lọc thịt, cho tới khi bị chặt đầu mới kếtthúc trận khổ hình. Sau khi hoàn hồn, anh ta không những ăn chay, thậmchí còn xuất gia làm hoà thượng.
Tên vô lại này bị thế là đángđời, ngày thường hay chèn ép bạn hàng, xưng hùng xưng bá nơi chợ búa,quen bắt nạt người khác rồi, giờ để hắn trải nghiệm cảm giác bị bắt nạt, ông trời có đức hiếu sinh, nên ngại gì mà không cho hắn một bài học.Nhưng cũng từ chuyện này mà nghĩ rộng ra, cùng là một vật, ứng với những linh hồn khác nhau lại cho những kết quả khác nhau như chim phượng vàchim cú, hoàn toàn tương phản. Ví dụ chuyện làm quan, có người cảm thấynhư cá gặp nước, chu du tam giang ngũ hồ, vui vẻ nhàn nhã, chỉ cần giấcmộng hoàng lương[3] không có đoạn cuối thì sẽ khiến người ta vô cùng hài lòng. Nhưng đối với người khác, cảm giác lại giống như đang phải gửihồn vào xác một con lợn chết vậy. Còn nhớ một câu chuyện trong quyểnsách cũ, trong đó danh sĩ này làm quan huyện chưa tới một năm, liền cáoquan về quê, lý do của anh ta là làm quan khổ không kể hết. Quan trên về kiểm tra, phải khúm núm khép nép nhìn sắc mặt họ, xuống làng xuống xãđể khám nghiệm thi thể, phải nhìn bộ phận sinh dục của cô gái bị ngườita hãm hiếp và giết chết, chẳng còn gì để nói. Thậm chí, sau nhiều lầnnhư thế, tạo thành một phản xạ có điều kiện, hễ nhìn thấy mặt quan trênlà lại liên tưởng đến âm hộ của nữ giới, vô cùng phản cảm. Cùng là làmquan, nhưng đối với vị danh sĩ này mà nói, một năm đó chẳng khác gì phải chịu cảnh đày ải.
[3] Giấc mộng hoàng lương/ giấc mộng kê vàng:xuất phát từ câu chuyện trong ‘Chẩn trung ký’ của Thẩm Kỷ Tế đời Đường:ngày xưa, có một chàng trai tên là Lưu Sinh. Lưu Sinh gặp một đạo sĩ tên là Lữ Ông trong quán trọ ở Hàm Đan. Anh ta than thở với đạo sĩ là mìnhnghèo túng quá, vị đạo sĩ cho anh ta mượn một chiếc gối, bảo anh ta gốiđầu mà ngủ. Lúc anh ta ngủ, quán đang nấu một nồi kê. Trong giấc ngủ,Lưu Sinh đã được hưởng thụ một cuộc sống vinh hoa phú quý. Khi anh tatỉnh dậy, nồi kê của quán vẫn chưa chín.
Sau khi linh hồn rờikhỏi thể xác, tự do đi lại, không lo lắng việc đánh mất bản sắc, nhưngcũng không thể nghênh ngang vô ích mãi như thế, cuối cùng vẫn phải tìmmột nơi để về. Giống như vị Trương Sảnh Nương trong Ly hồn ký của TrầnHuyền Hữu, hồn theo tình lang đến Thành Đô, trong năm năm đã sinh con,nhưng vẫn nhớ thương bố mẹ ở nhà, nếu như cô ta biết rằng thể xác mìnhvẫn đang nằm liệt giường vì bạo bệnh, có lẽ cô ta càng muốn nhanh chóngquay về.
Linh hồn Sảnh Nương quay về đương nhiên khiến ai nấy đều vui sướng, nhưng cũng có những trường hợp lại không được tốt đẹp nhưthế.
Gặp một người hoặc một vật tốt đẹp, thương nhớ vấn vương, sẽ nương theo mùi thơm trong gió mà đuổi theo một cách vô thức, giống nhưcâu nói của Trương Quân Thuỵ: “Lại có người hoa mắt chóng mặt không biết phải nói gì, linh hồn bay lơ lửng trên trời”. Yêu cái đẹp là đức tínhthường tình của con người, không có gì đáng trách, như tình yêu đơnphương của Tôn Tử Sở trong truyện A Bảo trong Liêu trai có thể thông cảm và bỏ qua, còn câu chuyện tình đầy nước mắt của Chu Hiếu Liêm trong Hoạ bích càng không cần người khác phải bàn ra tán vào. Nhưng có những việc làm người ta nhìn thấy khó chịu, hãy nói tới một chuyện xảy ra ở kinhsư những năm Quang Tự đầu tiên trong quyển bảy Động linh tiểu tạp. Có“thư sinh nào đó” đi từ Tuyên Võ Môn đến Tây Thảo Xưởng, gặp một thiếunữ xinh đẹp, liền nảy sinh ý muốn chiếm đoạt, liên tưởng miên man. Đếntối, ông ta mơ thấy mình ra khỏi thành, đến nơi ở của người con gái gặpban ngày, và thấy thiếu nữ xinh đẹp đó đang nằm ngửa. Kể đến đây phảinhắc nhở một chút, vị này mặc dù tự xưng là “thư sinh”, nhưng không phải “tuổi tầm hai mươi ba”, mà đã gần ngũ tuần, nghe thế thôi cũng đã thấymất hết hứng thú. Thì ra cô gái đó đang đẻ, còn vị “thư sinh” này, đứchạnh lại không đủ để kiềm chế tà ý, nên đã bỉ ổi lén nhìn trộm. Có lẽ vì ông ta tập trung quá mức, quên hết mọi chuyện trên đời, nên “bất giácthân nhập vào bụng người con gái đó, trong giây lát biến thành một đứatrẻ”. Mơ thấy hồn đầu thai, trong nháy mắt liền tham gia vào kiếp luânhồi. Cũng may hồn ông ta đầu thai vào cái thai con hoang, lập tức bị bàđỡ bóp chết, linh hồn mới thoát được khỏi cái thai đó. Càng may mắn hơnlà linh hồn đó vẫn giữ được diện mạo cũ của kiếp trước, chưa biến thànhmột đứa trẻ chưa biết đi, biết bò, cuối cùng trải qua rất nhiều trắctrở, cũng coi như tìm lại được nơi để dừng chân, nhập lại vào thể xáccủa mình. “Chỉ như một giấc mơ, mà cũng đã chết hai ngày.” Nếu hai người có duyên, sẽ gặp lại vào một ngày khác, lão thư sinh nghĩ lại lần đượclàm con của người ta đó, sao chịu được sự đả kích này?
Bên trênchỉ là ví dụ về hai kiểu chính của việc hồn rời khỏi xác. Lẽ nào ngoàihai kiểu này, không còn “ngoại lệ” nào hay sao? Nói có cũng được màkhông cũng không sai. Bởi hai kiểu hồn rời khỏi xác trên chính là sự tửvong của con người, con người chết rồi thì đương nhiên hồn phải rời đi.Nói đúng hơn, khi thể xác vừa tắt thở, linh hồn lập tức bay ra, cùng lúc phối hợp rất chặt chẽ, nhưng nếu gặp phải hồn phách có tính nóng vội,không đợi tín hiệu, thoát ra trước khi thể xác tắt thở và khoảng cách nó bỏ đi đủ xa thì có thể coi là một “ngoại lệ”, người chưa chết mà hồn đã rời đi. Chúng ta hãy đọc một câu chuyện trong Quảng dị ký của Đới Phuđời Đường:
Năm Đường Huyền Tông – Thiên Bảo, trong thành TrườngAn có một thầy bói tên Liễu Thiếu Du, khá có danh tiếng. Hôm ấy, nhà cókhách, tay cầm một miếng lụa mỏng làm lễ vật, đến nhờ Thiếu Du gieo quẻ, nói rằng muốn biết mình thọ được mấy năm nữa. Thiếu Du gieo quẻ xong,buồn bã nói: “Quẻ này của ngươi không lành, trong chiều nay sẽ từ trần.” Người khách nghe vậy, vô cùng buồn bã, một lúc lâu sau, muốn uống mộthớp trà nóng. Người ở nghe tiếng chủ nhân cho gọi, bưng trà đi lên, độtnhiên sững lại, hai người trước mắt giống nhau như đúc, đều là LiễuThiếu Du, không thể phân biệt được đâu là chủ, đâu là khách. Khách cáotừ, người ở tiễn anh ta ra cửa, chỉ vài bước chân đã vội quay lại, sauđó trong không trung truyền đến tiếng khóc ai oán. Người hầu kể lạinhững gì mình nhìn thấy cho chủ nhân nghe, Liễu Thiếu Du lúc này mớibiết vị khách đó chính là linh hồn của mình, than thở rằng: “Thần bắt ta đi, ta tất phải chết!” Đúng như quẻ bói, ông ta phán cho chính linh hồn của mình, tối đó ông ta chết.
Những câu chuyện kể về việc linhhồn sau khi rời khỏi thể xác có thể nhìn thấy thể xác của mình thì rấtnhiều, nhưng người đó có thể nhìn thấy linh hồn của chính mình, hoặcnhững câu chuyện về sự tương chuyển giữa “tôi” và “tôi” thì rất hiếmgặp, chắc chỉ có một câu chuyện này thôi, nhưng lại khiến tôi rất thích. Tự bản thân mình có thể nhìn thấy linh hồn của mình, lại còn được tiếpxúc, được gieo quẻ, thế thì “bản thân” kia là vật gì? Có lẽ nhục thể mất đi linh hồn kia cũng chính là “thể phách” rồi. Con người trong giấc mơmà linh hồn có thể rời khỏi thể xác và hoạt động, thậm chí còn có thể“nhìn thấy” hoặc cảm nhận được chính linh hồn của mình, lúc đó chínhphách đã duy trì sự sinh tồn của con người. Nhưng thể phách của ngườinày vẫn có khả năng và trí não để gieo quẻ cho khách thì lại không đơngiản chỉ là thể phách mà thôi. Cũng có thể dùng quan niệm con người có“ba hồn bảy phách” để giải thích, nhưng tốt nhất vẫn không nên giảithích. Câu chuyện phức tạp, rất có thiền cơ[4], một vài chi tiết trongđó rất thú vị. Đôi lúc chúng ta lấy danh nghĩa là phải xem xét, khảosát, phê phán, đả kích linh hồn của chính mình, “cái tôi” khi đó là gìđây? Thực ra chẳng là gì cả!
[4] Thiền cơ/ cơ thiền: bí quyết thiền sư dùng để ám thị giáo nghĩa qua ngôn ngữ cử chỉ hoặc sự vật khi thuyết pháp.
Trong những câu chuyện về hiện tượng có thể gặp chính linh hồn mình, có mộtchuyện trong quyển ba của Sưu Thần hậu ký của Đào Tiềm người đời Tấn.Chủ nhân không chết, chỉ biến thành kẻ ngớ ngẩn, được ghi chép như sau:
Có hai vợ chồng nhà nọ, hôm ấy bà vợ dậy trước để làm việc nhà, một lúcsau, ông chồng cũng dậy và đi ra ngoài. Bà vợ vẫn nghĩ rằng chồng mìnhđang ngủ, lúc quay vào phòng ngủ, quả nhiên thấy chồng đang nằm cuộnmình trong chăn. Đột nhiên gia nhân từ ngoài chạy về, nói chủ nhân saihắn ta quay về nhà lấy gương. Bà vợ cho rằng gia nhân nói năng linhtinh, liền kêu hắn ta nhìn chủ nhân đang ngủ say trên giường. Gia nhânnói: “Đúng là tôi vừa ở bên cạnh chủ nhân.” Bà vợ liền bảo hắn ta mau đi mời chủ nhân bên ngoài về đây. Chủ nhân nghe gia nhân nói vậy, sợ hãi,kinh ngạc, lập tức quay về nhà. Hai vợ chồng cùng vào phòng ngủ, quảnhiên trên giường có một người giống hệt mình đang nằm. Ông ta nghĩ,chắc vị này là “linh hồn” của mình, cũng không dám làm người đó kinhđộng, từ từ tiến lại gần, sờ sờ lên giường, liền nhìn thấy vị đó “từ từtrở lại vị trí”. Không lâu sau, người chồng bị bệnh thần kinh, ngơ ngơngẩn ngẩn, không hiểu chuyện gì, cả đời cũng không khỏi.
Có lẽ do anh ta dậy quá vội nên để quên hồn mình trên giường. Sau khi mất hồn,vẫn có thể sống bình thường, giống như trên chiến trường, chân bị trúngđạn mà vẫn có thể chạy một đoạn nữa, nhưng cuối cùng vẫn không trụ vững, trở nên mất trí. Nhưng từ điểm này cũng có thể nhìn ra được, ái lựcgiữa hồn thần và chủ nhân của nó rất yếu. Vương Phật Đại ba ngày khônguống rượu, cảm thấy như “người không còn là của mình nữa” cũng chính là ý hồn đã lìa khỏi xác, làm gì cũng ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Không biết liệu cóphải vị chủ nhân này cũng mắc căn bệnh đó, thiếu vài bữa rượu, dẫn đếnthân xác suy sụp như thế, cũng là đáng thương, không bằng chết như LiễuThiếu Du còn nhẹ nhàng hơn.
Thể xác giống như một căn phòng, bình thường cửa đóng then cài, linh hồn không thể thoát ra, nhưng then cửacủa một thân thể già nua yếu ớt sẽ bị lỏng lẻo, một phút bất cẩn, linhhồn sẽ thoát ra ngay. Tác giả của Tam cương thức lược – Đổng Hàm từngghi chép chuyện em trai ông là Tương Mỗ trước khi chết. Sức khoẻ TươngMỗ vốn yếu, sau đó lại mắc bệnh ho ra máu. Hôm ấy, anh ta đang nằm trêngiường, đột nhiên nhìn thấy có một người ngồi ở mé giường bên cạnh, khiđịnh thần lại, thấy đấy là chính mình, cũng đang nhìn mình chăm chăm,ngay sau đó từ từ rời đi. Tương Mỗ thất kinh, biết là linh hồn mình đãthoát xác, không còn sống được bao lâu nữa, quả nhiên mấy ngày sau anhta lìa trần. Vị Tương Mỗ này tuổi còn trẻ, đang thời huy hoàng, hayhuênh hoang khoe khoang, bình thường cũng thích trau chuốt mọi chuyện.Đổng Hàm vì anh ta là em trai mình nên cũng không tiện nói những chuyệnkhông hay, không phải của anh ta, đoán chắc người này cũng đã phải haotâm tổn trí trong việc xử lý mối quan hệ.
Việc hồn rời khỏi xác,đôi khi còn thể hiện trong giấc mơ. Trong quyển tám Duyệt vi thảo đườngbút ký có ghi lại một chuyện, con gái Vương Tri Châu ở Thương Châu lâmtrọng bệnh, hôn mê bất tỉnh. Nửa đêm, người nhà đi đến thư phòng đằngsau hậu viện, liền nhìn thấy tiểu thư đang một mình đứng dưới ánh trăngtrong vườn hoa, bất giác hoảng hốt, vội vàng quay lại. Tiểu thư rõ ràngđang bệnh nằm trên giường, sao trong vườn hoa lại có bóng dáng củangười. Mọi người đoán hẳn là do hồ ly hoá tinh, liền thả chó xông ra, và bóng người đó lập tức biến mất. Một lúc sau, nghe tiếng Vương tiểu thưyếu ớt vọng ra từ phòng bệnh: “Vừa rồi ta mơ thấy mình ra thư phòng ngắm trăng, đột nhiên xuất hiện một con mãnh hổ, suýt chút nữa thì bị nó vồ, giờ vẫn còn sợ.” Lúc ấy mọi người mới biết đã nhìn thấy linh hồn củatiểu thư. Thầy thuốc nghe xong, than: “Linh hồn của tiểu thư đã rời đi,cho dù thầy thuốc Lô hay Thiên Thước có sống lại, cũng bó tay không cách nào cứu chữa.” Quả nhiên, không lâu sau đó Vương tiểu thư qua đời.
Người mắc bệnh lâu ngày vào đêm trước khi chết, linh hồn sẽ rời đi, songnhững người già tuổi cao sức yếu thì tinh thần không còn mình mẫn nữa,giờ người ta gọi đó là bệnh Alzheimer, nhưng ngày xưa thì lại bị mọingười giải thích rằng linh hồn đã thoát xác. Tình hình của họ với TươngSinh không giống nhau, bởi vì có thể duy trì trạng thái này mấy năm,thậm chí đến mười mấy năm. Cực đoan một chút thì có thể nói rằng anh talơ lửng giữa sự sống và cái chết một thời gian dài, coi cái xác đó nhưngười còn sống, nhưng thực ra, linh hồn đã phiêu du vào thế giới u minhtừ lâu.
Trong quyển ba của Hữu đài tiên quán bút ký do Du Việtviết có một ví dụ, nói về bà của Kim Thiếu Bá. Vị lão thái thái này sống gần trăm tuổi mới tạ thế, nhưng những năm cuối đời đã rất lẫn rồi, nhìn thấy con dâu, con trai, cháu trai, cháu gái lại cho rằng họ hàng tớithăm, luôn miệng gọi “chị cả, chị hai”. Điều này cũng không có gì đángnói, kỳ lạ là, mỗi dịp lễ tết, trong nhà thắp hương cúng tổ tiên, cáccon dâu mang cơm cho bà, bà liền nói: “Vừa ăn rồi, sao lại cho ăn nữa?”Lúc đầu mọi người cho rằng bà đã lú lẫn, nhưng sau đó phát hiện ra, mỗilần cúng tế, bà đều nói như thế, hỏi lại bà rằng: “Mẹ nói là ăn rồi, vậy mẹ ăn những gì?” Lão thái thái liền kể ra các món, mọi người đều sợhãi, thì ra những thứ mà bà ăn giống hệt những đồ đang bày cúng trên bàn thờ. Linh hồn của bà lúc này đã rời khỏi thể xác, cùng với hồn pháchcủa tổ tiên thụ hưởng đồ cúng tế.
Chuyện mơ thấy mình thụhưởng đồ cúng tế của người thân kiếp trước, trong bút ký từ đời Nam Tống của Thiệu Bác Ghi chép từ những gì mà Thiệu Thị nhìn thấy có không ít.Tôi đã từng viết bài giới thiệu trong một chuyện về “vấn đề ăn uống ởthế giới bên kia”, nhưng chuyện linh hồn rời khỏi thể xác đến âm thếhưởng thụ đồ cúng tế thì lại gặp không nhiều. Mặc dù gặp không nhiều,nhưng câu nói: “Thi cư dư khí” trong sách cổ, chắc là muốn ám chỉ trạngthái này. Khuất Nguyên tiên sinh khi viết về một vị tổ tông của bạnmình, không biết liệu có kiểu liên tưởng bất kính như thế này không:“Thái hậu lão phật gia của chúng ta liệu có phải cũng đã từng ở trong“trạng thái” đó, dùng thứ dinh dưỡng hư không có được từ âm giới để suytrì số phận của Đại Thanh?”
Nhưng có những người già trước khichết mặc dù linh hồn thỉnh thoảng có chu du ra ngoài, nhưng tinh thầnvẫn sáng suốt, không những không phải mắc bệnh Alzheimer mà còn có đượcsự linh ứng của hồn, có thể nhìn thấy trước những chuyện trong tươnglai. Trong quyển bảy Động linh tục chi do Quách Tắc Vân viết có ghi lạimột chuyện lạ mà anh ta nghe được từ chỗ bạn mình, Uông Quân Cương: Tiền Trượng đời Đường Ngụy trước khi chết hai tháng, sau khi tiễn khách quay lại, ngồi trong phòng khách, hút tẩu thuốc: “Thần hồn đột nhiên thoátxác, đến phía tây đường Trường An, nhìn thấy trước cửa hiệu cầm đồ, mộtbức hoành câu đối chữ trắng viết trên nền xanh, chữ không nhiều. Lại đến Thiên An Môn, nhìn trên cửa, dưới lầu, thấy tượng một người mặc Tâyphục. Đi vòng quanh ra khỏi chính Dương Môn, lại quay về ngôi nhà cũ, cả ngày tha hương” đột nhiên như tỉnh mộng, phát hiện mình vẫn đang ngồitrong phòng khách, tay cầm tẩu thuốc. Thế là anh ta vội gọi Uông QuânCương đến, nói: “Chuyện này rất lạ, sau này mới có thể kiểm chứng, nhấtđịnh phải ghi chép lại.” Nhà họ Tiền là đại tộc lớn ở Chiết Giang, nhưng vị Tiền Lão Trượng du ngoạn kinh sư này là ai, mất năm nào, không airõ, chỉ là bản in của Động linh tục chi năm 1936, còn ở Thiên An Mônxuất hiện tượng lãnh tụ là sau năm 1945, vì vậy những gì Quách Thị ghilại không thể là chuyện xảy ra sau đó. Cái gọi là “hồn đột nhiên rờikhỏi xác” không phải nói Ngụy Lão Trượng có đạo “xuất thần” mà cũng chỉgiống như hồn phách của Kim lão thái thái tạm rời khỏi xác mà thôi.Nhưng Nguỵ Trượng sau khi tỉnh lại có khả năng tiên đoán, cho thấy đókhông phải là một giấc mộng bình thường. Đương nhiên, dù là tiên đoánthì cũng không có ý nghĩa gì, chỉ có điều khiến người ta cảm thấy rấtthần kỳ mà thôi.