Đất màu nóng ẩm, ve trùng kêu vang, hai bên phố dài Chu Tước, hòe du râm mát khắp nơi.
Một vầng nắng mai mọc ở phương Đông, hào quang vạn trượng, nắng sớm hắt xuống, thùng thùng tiếng trống vang lên trên cửa Lâu góc phố, xa xa quanh quẩn, chung cổ trên cửa Lâu bốn phương tám hướng hòa tấu, quyện thành một con sóng biển bàng bạc, kinh thiên động địa.
Vậy mà hôm nay, còn vang dội hơn tiếng trống, là tiếng người huyên náo.
Trên đường Chu Tước vạn người nhốn nháo, đông nghìn nghịt.
Tin Văn Chiêu công chúa hồi kinh khiến cả Trường An sôi trào.
Dân chúng tuôn ra khỏi cửa, điên cuồng chạy về phía quảng trường, con em sĩ nữ hào tộc, quan viên tiểu lại, thiếu niên lang từng ái mộ dung nhan phong thái công chúa xưa kia, dân chúng từng nhận ơn công chúa, nam nữ già trẻ, không ai chịu rơi ra sau, thay bộ y phục tươi sáng nhất, ùn ra phố dài chật như nêm.
“Văn Chiêu công chúa là cưỡi ngựa hay ngồi xe? Nàng có nhìn thấy chúng ta không ấy nhỉ?”
“Nghe nói phò mã là Quân chủ Vương Đình là một nước của ngoại vực, phò mã có cùng về với công chúa không nhỉ?”
“Ta nghe nói phò mã từng là người xuất gia! Là Phật Tử!”
“Mặt Phò mã như quan ngọc*, tầm cỡ tiên giáng trần, cùng với công chúa đúng là trời đất tạo nên!”
*chỉ mỹ nam tử.
Trong tiếng bàn tán xôn xao, từ cuối phố dài tiếng gió phần phật vẩy quét tới. Đám người vô cùng hưng phấn, kéo mở bả vai người trước mặt, nhón chân nhìn quanh.
Trong ánh ban mai mờ mịt, bóng dáng lờ mờ từ trong sương mù đi tới.
Đầu tiên rọi vào mắt họ là từng lá cờ đón gió tung bay, màu đen túc sát, màu trắng tuyết lạnh thấu xương, phía trên đầy chữ chi chít, binh sĩ khiêng cờ giáp nhẹ bào trắng, khuôn mặt nghiêm túc.
Đám đông ngẩn người. Đây không phải cờ Vương Đình, cũng không phải cờ Tây quân.
Đó là cờ dẫn hồn viết đầy tên người đã khuất, lá cờ đính băng rua thật dài, trên băng rua cũng viết đầy chữ.
Đội ngũ từng hàng sát từng hàng, liên tục không ngừng, tiếng cờ bay vang thấu trời đất.
Ngay sau đó là một tràng tiếng xe ngựa lộc cộc, từng chiếc xe ngựa theo sau đội cờ phướn lái vào cửa Lâu.
Khi mọi người thấy rõ những tấm bảng gỗ trưng trên xe ngựa là gì, tiếng nói chuyện rải rác trong đám đông im bặt.
Bầu không khí đông cứng bao phủ trên không của quảng trường.
Dương Thiên, Dương Niệm Hương một thân áo giáp, cầm phù tiết, dư đồ trong tay, đi cạnh xe ngựa, bước chân nặng nề, nét mặt anh tuấn lạnh lùng trang nghiêm.
Bên cạnh họ và sau lưng, từng cỗ tiếp từng cỗ xe ngựa chở tro cốt và bài vị từ tốn đi trên đường cái ở phố dài.
Những bài vị này một số là Dương Thiên tự tay viết, thân phận khác nhau, trải qua khác nhau, có người là tộc nhân của cậu, có người là dân thường từng khóc quỳ dưới chân cậu, hỏi sách vạn ngôn phải chăng đã đưa đến Trường An, có người là đồng bào bạn tốt là cùng cậu kề vai chiến đấu, nhiều hơn nữa là những người xa lạ mà cậu chưa từng gặp mặt.
Họ đều có một nguyện vọng giống nhau, thu lại đất mất, về cố quốc phương Đông.
Vì thế, bọn họ có người kỳ vọng khổ sở mấy mươi năm, có người nghĩ trăm phương ngàn kế giúp đỡ Tây quân, có người xếp bút nghiên mà theo binh đao, liều chết phản kháng, chết dưới trường đao kẻ địch.
Văn Chiêu công chúa lập bài vị lưu danh cho họ, hôm nay, công chúa đưa họ trở về, họ sẽ được mang về nguyên quán an táng, hồn về quê cũ.
Hai bên đường cái, hoàn toàn yên tĩnh.
Không ai dám lên tiếng quấy rầy nhóm người đã khuất, trong mắt long lanh nước mắt, lẳng lặng chăm chú nhìn từng bài vị trên xe ngựa.
Giờ phút này, đi trước mặt bọn họ không phải xe ngựa chở bài vị tro cốt, mà là hàng ngàn hàng vạn dân chúng bị bắt đi trong chiến loạn, rời xa quê quán, nhận hết khổ sở, ngóng chờ chết rồi có thể lá rụng về cội, là mấy vạn vạn anh linh vì tộc nhân về Đông mà bỏ đầu, vẩy máu nóng, hi sinh sinh mệnh mình.
Trong họ có già, có trẻ, có nam, có nữ, có nông dân nghèo, có nhi lang thế gia trẻ tuổi khí thịnh, họ không hề khác biệt với dân chúng Trường An, họ bị ép cắt đứt liên hệ với cố quốc, lang bạt kỳ hồ, vô số lần hướng về phương Đông bái lạy từ xa, khẩn cầu Vương sư thu phục đất mất, để về được quê nhà.
Hồn này trở về.
Trở về đi, những cô hồn lãng du ngoài kia.
Trở về đi, các huynh đệ vì phản kháng áp bức, dẫn tộc nhân Đông về mà hi sinh tuổi trẻ.
Các người đã về nhà.
Xem kìa, Tây Vực đã bình định, Hà Lũng thông suốt, cuối cùng các người đã về lại quê hương hồn khiên mộng nhiễu, vong hồn có thể cảm thấy an ủi.
Về sau, từ Trung Nguyên rộng lớn màu mỡ, đến cao nguyên Tuyết vực nghèo nàn khốc liệt, sẽ không còn chiến tranh và giết chóc, nông dân khiêng cuốc cày ruộng trồng trọt, thương nhân ngồi xe ngựa chứa đầy tơ lụa châu báu đi về, dân du mục nhàn nhã chăn thả trên thảo nguyên mênh mông vô tận dê bò vội vàng thành đàn, người Hán, người Hồ, người Bắc, người Nam, tin Phật, tin Đạo, tin Bái Hỏa Giáo, Ma Ni giáo, mọi người ở chung hòa thuận, chung nhau tạo nên thái bình thịnh thế.
Con cháu của các người có thể sống yên ổn, chúng sẽ không còn phải giống như các người, ăn bữa hôm lo bữa mai, thê ly tử tán, cả đời khốn cùng.
Trường phong thổi qua, cờ phướn cao cao bay, băng rua ào ào múa lượn.
Từng vong linh kia thoảng như sống sờ sờ xuất hiện trước mắt dân chúng, họ kề vai sát cánh, đi trên đường dài Chu Tước biển người mãnh liệt, cười đùa, sợ hãi thán phục, cảm khái.
Mọi người yên lặng ngắm nhìn họ.
Thà làm chó thái bình, không làm người thời loạn!
Trên cổng thành, Lý Đức đầu đội thông thiên quan, một bộ lễ phục, đứng yên dưới cờ, nhìn đội xe tinh kỳ tung bay xa xa.
Trăm họ lệ nóng cuồn cuộn, trên quảng trường mới rồi còn nói to ồn ã không thôi đã vắng vẻ như nước tĩnh, chỉ có tiếng xe ngựa lộc cộc lộc cộc chạy qua phố dài và tiếng tinh kỳ bị gió xuân vỗ vang.
*Mai: Cờ dẫn hồn sau thời Tống mới hình thành phong tục, có tham khảo tư liệu dân tộc khác nhau.
Sắc mặt Lý Đức cứng lại.
Mấy vị hầu cận phía sau nhìn nhau: cứ tưởng hẳn là tướng lĩnh Tây quân vây quanh Văn Chiêu công chúa vào thành, cũng may Lý Đức chiêu hiển thực lực Tây quân trước mặt, họ có thể thừa cơ làm khó dễ, ai ngờ đi đầu vào thành lại là di dân mất đất và tướng sĩ hy sinh. Văn Chiêu công chúa ngay cả cái bóng cũng không thấy.
Như thế này, gì cũng không còn quan trọng nữa, ai dám chịu nguy hiểm kích thích dấy lên sự phẫn nộ của dân chúng mà dò xét Tây quân có phải một khối thiết bản hay không?
Bên cạnh lễ đài dưới cổng thành, văn võ bá quan nhìn từng chiếc xe ngựa chạy đến kia, vẻ mặt chấn động, thật lâu không nói.
Quan viên trẻ tuổi không khỏi mũi chua mắt nóng, nhiệt huyết sôi trào trong lồng ngực, hào tình vạn trượng.
Quan viên già lặng lẽ trao đổi ánh mắt, yên lặng thở dài.
Bọn hắn còn nhớ rõ ngày đó công chúa hòa thân, hoa phục lộng lẫy, cưỡi xe ngựa rời Trường An, dân chúng khóc đưa cả đường.
Khi đó, bọn hắn đều cho là công chúa một đi không trở lại, chẳng mấy chốc sẽ hương tiêu ngọc vẫn trong chiến loạn rối bời giữa đám bộ lạc.
Trôi qua mấy năm, công chúa cầm dư đồ mấy chục Châu, dẫn bộ khúc của mình, quay lại Trường An.
Ca khúc khải hoàn vang lên thanh bình, mà không phải chiêu quân ra biên cương xa xôi.
Lý Đức liếc qua bá quan dưới đài, thu hết thần sắc mọi người vào mắt.
Hầu cận lau mồ hôi, nhỏ giọng nói: “Bệ hạ, công chúa được tận lòng người…”
Ánh mắt Lý Đức yên tĩnh.
Chính bởi vì thế, ông càng phải đề phòng Lý Dao Anh, con bé có lòng người, có binh mã, có một đứa huynh trưởng kiệt ngạo bất tuần, lại còn gả cho Đàm Ma Vương, hơn nữa còn là nhược điểm của Lý Huyền Trinh.
Quan viên lễ bộ phản ứng nhanh chóng, lập tức phái ra Văn tiến sĩ nổi bật nhất tân khoa ngay tại chỗ viết mấy bản tế văn dõng dạc, tế cáo người khuất.
Lý Đức ra hiệu hầu cận ban bố chiếu thư, an ủi các Châu Tây Vực. Dương Thiên và tướng lĩnh Hà Tây thay mặt bá tánh mất đất khấu tạ thánh ân.
Dân chúng ở quảng trường đều lệ rơi lã chã.
…
Dao Anh cưỡi ngựa theo đội sau cùng, quan viên Lễ bộ ra đón, liên tục khẩn cầu nàng lên một cỗ xe ngựa trang trí tinh xảo vào thành, nàng lắc đầu, nói: “Ta đưa người chết về lại quê hương, không cần đặc biệt ra mặt.”
Đám quan chức hơi kinh ngạc, bạch nhật phóng ca tu túng tửu, thanh xuân tác bạn hảo hoàn hương*, nghi thức về thành long trọng thế, công chúa xuất hiện trước đám đông mới mua chuộc lòng người, nàng đã chịu quá nhiều đau khổ ở Tây Vực, cam tâm bỏ lỡ cơ hội lớn lượm danh tiếng tốt cỡ này sao?
*thơ Đỗ Phủ, ban ngày lão phu muốn quá chén hát vang, kết bạn cảnh xuân cùng về quê nhà.
Dao Anh thúc ngựa, xuyên qua thẳng giữa bọn họ.
Nàng đã nhận lời những lão giả và tướng sĩ chết đi sẽ đưa họ hồi hương, nói được làm được. Nhân vật chính hôm nay là người đã khuất.
Dưới cửa Lâu, lễ quan gọi phong hào Dao Anh xong, tất cả quan viên trẻ trong triều đều ngẩng đầu đầy khẩn trương mong chờ, có mấy người nóng lòng không để ý lễ nghi, rướn cổ nhìn ra xa.
Vô số ánh mắt đồng loạt nhìn sang Dao Anh.
Trong đám đông, Trịnh Cảnh nhìn ra phố dài, nhớ lại cảnh mới gặp nàng, mỉm cười.
Cờ xí phần phật, thân vệ bộ khúc tùy tùng, Dao Anh cưỡi ngựa, đầu buộc tơ lụa, người mặc áo tay hẹp cổ bẻ cẩm bào, tư thế hiên ngang, đi đến trước bậc, lưu loát xuống ngựa, đón ánh nhìn chăm chú của quan viên văn võ, từng bước đi lên, nhận hương Dương Thiên đưa tới, bái tế đàn từ xa, nhìn rất có thần, khí độ uy nghi.
Khiếp sợ khí thế của nàng, đám người đờ ra bất động, không ai dám tiến lên hàn huyên cùng.
Quan viên trong triều kinh ngạc nhìn nàng, đối mặt với ánh mắt thân vệ lạnh như băng bên cạnh nàng, chợt nhớ tới, hiện giờ Văn Chiêu công chúa không còn là Thất công chúa trước kia mặc người chém giết, nàng cầm đầu Tây quân, kinh lược Tây Vực, đến cả Thánh thượng cũng không thể tùy tiện khoa tay múa chân.
Đám người trao đổi ánh mắt, nghe đồn Lý Trọng Kiền bí mật hồi kinh định hành thích, bị bắt tại chỗ, ngài ấy là anh trai cùng mẹ của Văn Chiêu công chúa, huynh muội tình thâm, thảo nào Lý Đức không ra chiếu lệnh giết hay luận tội, giữ lại Lý Trọng Kiền, Văn Chiêu công chúa mới có thể an phận thủ thường.
Nghi thức qua đi, trong cung tổ chức yến hội, bày tiệc mời nhóm tướng lĩnh Tây quân.
Dương Thiên nhìn trái phải, không nhịn được hỏi: “Sao không thấy Thái tử Điện hạ?”
Quan viên đáp: “Thái tử lãnh binh bên ngoài, còn chưa về kinh.”
Dao Anh ngồi bên trái Lý Đức, nàng không xem ca múa, nâng ly rượu, bước lên mấy bước, đi thẳng vào vấn đề: “Bệ hạ, anh tôi đâu? Anh ấy còn sống hay đã chết?”
Lý Đức cười cười, đã qua mấy năm, con bé vẫn trực tiếp như xưa, chưa từng cùng ông ta lá mặt lá trái, cũng vẫn trọng tình, nguyện mạo hiểm vì Lý Trọng Kiền.
Ông không công bố thích khách là ai, có thể bí mật xử quyết bất kỳ lúc nào, con bé không tìm được cách ép ông thả người, biết rõ Trường An là cái bẫy, cũng đành một đường chui đầu vào.
“Ngươi rời Trung Nguyên đã lâu, đợi thêm vài ngày tự nhiên sẽ gặp được huynh trưởng.”
Dao Anh thản nhiên nói: “Chỉ cần Lý Trọng Kiền không sao, tôi sẽ ở lại, nhưng trước hết ngài phải để tôi gặp anh ấy.”
Lý Đức ra hiệu cho nội thị bên cạnh. Nội thị lui xuống, sau chốc lát bưng lên một thanh kiếm, trên chuôi kiếm khắc chữ địa phương huơ trước Dao Anh.
“Lý Trọng Kiền hiện còn sống.”
Chỉ là hiện giờ.
Dao Anh nhận ra bội kiếm của Lý Trọng Kiền, rũ mắt, uống cạn rượu còn dư trong chén, quay lại chỗ ngồi. Không ngừng có quan viên trẻ tuổi đến bồi hồi đứng cạnh ghế nàng, định bắt chuyện, thấy dáng vẻ nàng tâm sự nặng nề cuối cùng không dám đường đột, lui đi.
Chỉ có vài quan viên khẩu âm khác biệt rõ với đám đông đến trước mặt Dao Anh, mời rượu với thái độ cực kì cung kính, tự giới thiệu: “Công chúa điện hạ, bọn ta là người Nam Sở.”
Họ tự giới thiệu chức quan của mình, đều là đại thần Nam Sở, sau khi Nam Sở đầu hàng họ được đưa đến Trường An.
Dao Anh sinh cảnh giác, quét mắt sang Lý Đức, cho rằng ông ta định vạch trần thân thế mình.
Lý Đức hình như cũng chẳng chú ý đến đám quan thần Nam Sở, đứng nói chuyện với đám Dương Thiên, trong uy nghiêm không mất thân thiết, mấy tướng lĩnh trẻ tuổi mặt đỏ tới mang tai, khó nén tâm tình kích động.
Dao Anh không nói gì thêm với đám quan viên Nam Sở, lấy lý do tửu lượng yếu, sớm rời khỏi lễ tiệc. Lý Đức không chặn nàng, chỉ cho người giao bội kiếm Lý Trọng Kiền cho nàng, nói: “Hôm nay thân phận công chúa quý giá, Vệ Quốc Công là huynh trưởng của ngài, Thánh thượng sẽ không làm gì Vệ Quốc Công, có điều công chúa cũng phải thận ngôn trọng hành, tránh xảy ra chuyện không đáng, hại Vệ Quốc Công.”
Dao Anh hiểu rõ ám chỉ, đóng cửa từ chối tiếp khách, mọi người đưa thiếp mời tới mời nàng đi nói chuyện riêng, uống trà, dâng hương, ngắm hoa, đều một mực từ chối, mỗi ngày đợi trong dịch quán không ra cửa chính, cửa phụ càng không.
Lý Đức phái người trông chừng Dao Anh, quan sát mấy ngày, xác định Đàm Ma La Già không đi theo, một cận vệ Vương Đình bên cạnh nàng đều không có, ở vùng gần Trường An cũng không có tung tích người Vương Đình, tiếp tục phái người điều tra, nếu phát hiện động tĩnh người Vương Đình, lập tức về bẩm.
Mãi đến khi xác nhận Dao Anh không bí mật sắp xếp liên lạc ai, ông ta mới sai người đưa tin: Muốn gặp Lý Trọng Kiền hãy đi Từ Ân Tự. Kèm theo là một chiếc túi nhận lộ Lý Trọng Kiền thường đeo trên người, trên túi là đôi thú Dao Anh tự tay thêu.
Dao Anh dẫn theo Tạ Thanh đi Từ Ân Tự, dâng hương bái Phật xong, trò chuyện mấy câu với chủ trì, nhận được chỉ thị thứ hai, ra chùa miếu, thẳng đến ngoài thành Ly cung.
Lý Đức nhốt Lý Trọng Kiền trong Ly cung.
Nàng theo nội hoạn qua từng hành lang quanh co, đi vào lối đi tối thui chật hẹp, đẩy cửa ra, trong góc một người ngẩng đầu, đẩy tóc rối trên mặt.
“Anh!” Lòng Dao Anh như có lửa đốt, thầm thở phào, chạy nhanh tới, đưa tay định đập hắn, “Anh…”
Nàng cùng người kia nhìn nhau một lát, thần sắc cứng đờ, sau lưng tứa ra mồ hôi lạnh.
Người này có mấy phần giống Lý Trọng Kiền.
Nhưng hắn không phải Lý Trọng Kiền.
Tạ Thanh nhíu mày, lập tức rút đao. Dao Anh đứng dậy, nhanh chóng rời khỏi đường hẻm, ngẩng đầu liếc nhìn một vòng.
Tất cả lối ra được Kim Ngô Vệ canh giữ lớp lớp, trên đầu tường bóng người chao động, cũng có người mai phục.
Dao Anh đè tay Tạ Thanh lại, bình tĩnh hỏi: “Thánh thượng đâu?”
Nội hoạn cười cười, dẫn nàng đi Phật đường, Kim Ngô Vệ cầm trường đao trong tay, theo sát nàng không rời một tấc.
Lưỡi đao lạnh băng chiếu lên mặt nàng, vẻ mặt nàng vẫn như thường, đưa mắt ra hiệu Tạ Thanh thu đao.
Trong Phật đường bày cúng tượng Phật, mùi đàn hương thơm phức, mùi nhang đèn bay bay, Lý Đức xếp bằng trước tượng Phật, dựa túi mềm, đầu chít khăn trách, sắc mặt trắng bệch, vẻ già nua.
Dao Anh đi vào Phật đường, “Thánh thượng tốn bao nhiêu tâm sức chỉ để vây khốn ta sao? Nếu ta xảy ra chuyện ở Trường An, Tây Vực vừa bình định sẽ lại phân loạn lần nữa, Thánh thượng không thể giết ta, làm khó ta thì được gì?”
Ánh mắt Lý Đức rơi trên mặt nàng, “Không vây khốn ngươi, làm sao dụ Lý Trọng Kiền ra?”
Dao Anh cười giễu một tiếng.
Ám sát ở hồ Khúc Giang là Lý Đức an bài, ông ta biết nhược điểm của nàng, để người ta cho rằng Lý Trọng Kiền ám sát ông ta trước chúng, dẫn dụ nàng vào kinh thành, lại dùng nàng làm mồi nhử, dụ ra Lý Trọng Kiền, đem Lý Trọng Kiền đến uy hiếp nàng.
“Sao Thánh thượng chắc rằng ta sẽ trúng kế?”
Lý Đức nhìn qua tấm rèm trúc Tương Phi nửa cuốn lên, nói: “Bắt đầu từ lúc trẫm chọc giận Lý Trọng Kiền về kinh, mỗi một bước phản ứng của các ngươi đều nằm trong dự liệu của trẫm, trẫm cắt đứt liên lạc giữa ngươi và Lý Trọng Kiền, cố ý thả tin, ngươi không tìm thấy hắn, sốt ruột cứu người, biết rõ là cạm bẫy, vẫn sẽ đến.”
“Anh ta đâu?” Dao Anh đi đến trước tượng Phật, ném miếng bánh hương vào trong lư hương đồng đầu thú, “Tại sao ông lại có bội kiếm của anh ấy?”
“Lúc Lý Trọng Kiền về tới Cao Xương, người của trẫm vẫn đi theo hắn. Lần này hắn rất cẩn thận, người của trẫm theo mãi đến Kinh Triệu phủ, đang chuẩn bị thu lưới thì lại để hắn trốn mất, nhưng bọn hắn cũng lấy được bội kiếm và vật thiếp thân, vây hắn trong phường, hắn đã ẩn núp rất nhiều ngày, nên hiện thân rồi.”
Dù Kim Ngô Vệ không bắt được Lý Trọng Kiền nhưng đã vây hắn trong phường, hắn không thể truyền tin ra cũng như không thể nhận tin. Sau khi Dao Anh vào thành, Lý Đức lấy lý do thân phận nàng quý giá, sai người đưa tất cả người tiếp cận nàng ở trụ sở đi tra xét, vẫn không ra được tin tức Lý Trọng Kiền. Lý Trọng Kiền núp sâu vậy, thật ngoài dự liệu của Lý Đức.
Giờ ông dụ Dao Anh vào Ly cung, lại tung tin ra, dù Lý Trọng Kiền trốn xó xỉnh nào sớm muộn cũng sẽ hiện thân.
Từ giây phút Lý Trọng Kiền quyết định về Trung Nguyên, hai huynh muội này đều rơi vào bẫy của ông ta – Lý Trọng Kiền buộc phải về Trường An, ông không thể chịu đựng thấy chúng nó tiếp tục lớn mạnh, còn tại vị một ngày, ông sẽ không để chúng nó sống yên ổn.
Phụ tử quân thần, ngươi chết ta vong, không còn con đường nào khác.
Dao Anh ngồi xếp bằng xuống phía đối diện Lý Đức.
Lý Đức nhìn nàng: “Ngươi không sợ trẫm giết ngươi à?”
“Người cả tòa thành Trường An đều biết ta đã đến Ly cung, Thánh thượng cứ thế mà giết ta, làm sao ăn nói với Tây quân? Thánh thượng có thể giam lỏng ta chứ không dám giết ta.” Dao Anh nhìn bụi chuối tây rậm rạp trong đình, nói.
Lý Đức cong khóe môi, ra hiệu người hầu dâng trà.
Thật sự ông rất thưởng thức Dao Anh, con bé rất thức thời, biết chỗ dựa vào, co được giãn được, đáng tiếc thực chất trong xương giống Tạ Vô Lượng vậy, ràng buộc quá nhiều.
Không giống như ông ta, tuyệt tình phụ nghĩa, không gì kiêng kỵ.
Dao Anh đã lâu rồi không được uống trà Trường An, nghe mùi hương quen thuộc, nói: “Thánh thượng, nếu ta đưa anh trai ta về Cao Xương, cả đời này không đặt chân lại Trường An một bước, Thánh thượng có thể buông tha chúng ta hay không?”
Lý Đức nói: “Thả hổ về rừng, hậu hoạn vô tận.”
Dao Anh ngước mắt.
Kim Ngô Vệ quỳ gối ngoài hành lang: “Thánh thượng, đã tung tin. Các nơi trong thành giới nghiêm, Tây quân đang chịu giám sát của bọn tôi nghiêm mật, toàn bộ cửa cung đều do Cấm quân bảo vệ, trong vòng năm ngày, ngoại trừ cấm quân, không ai được tự tiện rời Phường.”
“Năm ngày, đủ rồi.” Lý Đức gật đầu, ngó Dao Anh, “Trường An đã thành một tòa thành chết, không ai có thể tiếp cận Ly cung ngoại trừ tên điên Lý Trọng Kiền không muốn mạng kia, đợi hắn thôi, chậm nhất đêm mai, ngươi có thể gặp hắn.”
Dao Anh lặng thinh.
Nóng khô rút đi, màn đêm buông xuống, gió đêm quét qua lá chuối tây to lớn đưa tới hơi lạnh từng cơn, ánh trăng chảy xuôi, yên lặng như tờ.
Tạ Thanh bị dẫn đi, Dao Anh ngồi trước tượng Phật tượng, nhắm mắt trầm tư.
Trong yên tĩnh, đột nhiên vang lên tiếng kêu to kinh hoảng, bốn phía bóng người lượn lờ, Cấm vệ áo đen vọt ra từ các ngõ vắng không người trong đình viện, tiếng bước chân như mưa rơi, xuyên qua hành lang, vây quanh Phật đường.
Dao Anh mở to mắt.
Mấy chiếc đèn lồng từ xa đến gần, Lý Đức khoác áo khoác, đứng ngay cổng, sắc mặt trắng xanh: “Đêm nay Lý Trọng Kiền sẽ đến cứu ngươi, đi theo trẫm.”
Dao Anh cười lạnh, đứng dậy đuổi theo ông ta.
Các đình đài lầu các tinh xảo đan xen nhau của Ly cung đã bị khói đen ùn ùn bao phủ, bốn phía lửa đỏ, ngọn lửa thiêu cháy đêm trăng lạnh âm u, khắp nơi người hô ngựa hí, tiếng bước chân, tiếng mắng chửi, tiếng trách mắng hòa vào một, khói bụi lửa đỏ bay mù trong không khí.
Cấm vệ từ các hướng khác nhau chạy như bay tới báo tin: “Thánh thượng, phía Nam có một đội quân!”
“Phía Bắc cũng có địch tập kết!”
“Phía Đông cũng có!”
Mưa tên đầy trời rơi xuống.
Mày Lý Đức không hề nhíu một cái, vẫn từ tốn chỉ huy, dẫn Dao Anh leo lên chỗ lầu canh cao nhất, bảo Cấm vệ đốt lên đèn đình, thắp sáng trên dưới lầu canh.
Đuốc cháy nuốt trọn bóng đêm, trong khói đen tràn ngập, mấy đội người ngựa chia ba hướng phóng đến Ly cung, bị Cấm quân đã chuẩn bị từ trước chặn đường quấn đánh.
Lý Đức nhìn quanh một vòng, nghe tiếng la giết đôi lúc đứt quãng trong gió đêm: “Đều là người Hán, sao người Vương Đình không tới cứu ngươi?”
Dao Anh ngưng mắt nhìn mấy tia giáp bạc lạnh lẽo thi thoảng lóe trong đêm tối, mắt hơi giễu cợt: “Thánh thượng cho là người Vương Đình sẽ nhúng tay sao?”
Lý Đức đúng là nghĩ vậy, ông ta phái người trông coi những lối chính vào kinh, chính là vì đề phòng người Vương Đình, chỉ cần một người xuất hiện ở Ly cung đêm nay, ông ta sẽ chộp lấy vặn hỏi Đàm Ma La Già cấu kết với Lý Dao Anh, rắp tâm hại người.
“Thánh thượng quá lo lắng, chuyện giữa mấy cha con chúng ta không cần lôi Vương Đình dính líu vào, tránh phá hỏng minh ước hai nước.” Giọng điệu Dao Anh lạnh nhạt.
Lý Đức trầm tư: “Dương Thiên cũng không đến, tất cả tướng lĩnh Tây quân đều co đầu rút cổ bất động, ngươi tuyệt đối không ngạc nhiên sao?”
Dao Anh cười cười: “Ta đoán, lúc ta đến Ly cung, Thánh thượng đã thông báo đến Tây quân thân thế của ta rồi nhỉ?”
Ông ta không chỉ muốn dụ Lý Trọng Kiền ra, còn muốn giá họa Vương Đình, một bước dọn sạch tướng lĩnh trong Tây quân trung thành với nàng.
Lý Đức gật đầu: “Ngươi không phải là con gái ta, Tây quân vẫn xem ngươi là chủ, nhưng ngươi là người Nam Sở, Nam Sở vẫn còn tàn quân trốn trong núi sâu không chịu quy thuận, hôm nay thiên hạ nhất thống, danh gia vọng tộc Hà Tây muốn quay lại triều đình, khôi phục vinh quan xưa kia, không muốn bè bạn với dư nghiệt Nam Sở, thân phận của ngươi không còn thích hợp làm thủ lĩnh bọn hắn nữa.”
“Thất Nương, thế đạo là như thế, đừng đánh giá quá cao lòng người.”