Đây là một con đường với ba ngả rẽ, chưa được sửa chữa một cách chuyên nghiệp, chỉ dựa vào những bước chân của bao người dân trong núi suốt năm năm tháng tháng đi mãi mà thành. Đêm hôm trước trời vừa đổ mưa, đường lại càng khó đi, giẫm xuống một bước là có thể dính bùn nửa bàn chân.
Vùng núi không có đèn đường, chỉ biết dựa vào ánh sáng của trăng sao. Dưới đất không có đèn, trăng sao cũng trở nên vụn vặt. Hai bên toàn là những bụi cây rậm rạp dày đặc. Gió thổi qua, cành lá rung lắc, như có người nào đó đang thì thầm to nhỏ.
Người đàn ông loạng choạng lảo đảo đi lên tới điểm cao nhất của con đường núi, mượn ánh trăng nhìn xuống phía dưới. Phía xa là những dãy núi trùng trùng điệp điệp, trở thành một đám đen đặc. Không còn nhìn được con đường lúc đến, cũng không biết đường ra ở đâu.
Điểm cuối của con đường dưới chân chính là ngã ba đó. Cũng may có nước mưa, mơ hồ rọi sáng con đường nhỏ, nhìn qua trông giốn như một dải bàng bạc đang phát sáng. Tới điểm rẽ, một ngả rẽ vào khu rừng kín mít không một ngọn gió, địa hình khá bằng phẳng, nghe nói có thể vào trong thôn. Một ngả khác là con đường vào núi khá ngoằn ngoèo, miên man dài cả ngàn dặm, người không thông thuộc địa hình sẽ vĩnh viễn lạc mất nơi núi sâu hút.
Gió thổi xào xạc.
Khu vực này nhiều mưa, chẳng mấy chốc trời đã lại đổ cơn mưa nhỏ, rơi xuống người không chút âm thanh, nhưng dần dần cũng ướt hết quần áo.
Người đàn ông vội vàng rút chiếc áo mưa từ trong chiếc ba lô dính đầy bùn đất ra, mặc lên người mình, rồi gắng sức rút một chiếc di động từ trong túi áo ra. Không có tín hiệu, còn 10 phút nữa là tới nửa đêm.
Pin của di động sắp cạn hẳn, bắt đầu chuyển sang màu vàng nhắc nhở. Người đó không dám dùng di động nữa, cất cẩn thận vào trong túi áo sau đó kéo kín quần áo lại, giẫm từng bước một sâu một nông tiến về phía trước.
Khi sắp tới ngã rẽ, cơn mưa nhỏ chợt ngừng lại. Bầu không khí về đêm quấn lấn mùi hương hoang dã của núi rừng, cực kỳ lạnh lẽo. Những hố bùn to nhỏ trên mặt đường đựng đầy những vũng nước mưa nông sâu khác biệt.
Người đàn vuốt mặt, đi một chuyến hành trình dài trên con đường này, đói rét xen lẫn khiến môi người ấy cũng đã tím bầm lại. Anh nhìn về phía bên trái rồi lại nhìn về phía bên phải.
Hai con đường hai bên đều tối mù mù, giống như miệng của một con quái vật đang đợi con mồi tới gõ cửa.
Người đàn ông suy nghĩ rồi quyết định đi về hướng bên phải.
Nhưng vừa cất bước, trên trời đã vọng xuống từng đợt âm thanh vang dội.
Giống như tiếng chuông.
Đợt này nối tiếp đợt kia, vang mãi trong núi rừng.
Chẳng hiểu sao da đầu của người đàn ông lại tê rần. Nửa đêm, trong khu rừng núi không một bóng người lại vọng tới tiếng chuông... Tiếng chuông này khiến anh liên tưởng tới tục đuổi vong ở Tương Tây. Có một pháp sư mặc áo khoác dài, đi được vài bước lại gõ lên chiếc chiêng nhỏ, trong tay lắc chiếc chuông trấn hồn, tiếng chuông đó rùng rợn đáng sợ.
Khiến người còn sống né tránh.
Suy nghĩ ấy vừa hiện lên thì anh nhìn thấy bóng một đám người đi ra từ khu rừng bên phải. Người đàn ông dụi mạnh hai mắt. Không sai, là bóng người, giống như từ trên trời rơi xuống, từ xa lại gần.
Nhưng những chiếc bóng đó rất quái dị.
Khi họ gần đi tới, người đàn ông mới nhìn rõ, bỗng chốc da gà nổi đầy người.
Hóa ra là một đoàn đưa tang.
Nhìn thì có đến hơn mười người, ai nấy đều mặc áo choàng vài màu xanh đồng, bên trên quấn một chiếc áo trắng, vạt áo lấy đai đen thắt ở giữa eo. Trong đó có bốn người khiêng một chiếc giá gỗ được quấn vải đen lên vai, bên trển giá gỗ là một chiếc quan tài nặng nề, bên trên quan tài cũng được vải đen che chặt.
Người đi đầu ăn mặc có khác biệt một chút, cả người mặc áo choàng đen, đầu đội mũ cao, tay xách chuông đồng, tiếng chuông kia vọng ra từ đây.
Theo sát người đi đầu là một người khác, trong tay ôm khung ảnh, trong đó là một bức ảnh đen trắng.
Tất cả mọi người, dù là khiêng quan tài hay đi dẫn đường sắc mặt đều nhợt nhạt như nhau.
Khiếp đảm hơn là những người này đều cúi gằm xuống mà đi, trong cả đoàn không có một ai ngẩng lên nhìn về phía trước.
Da đầu người đàn ông gần như nổ tung.
Khi tiếng chuông vang lên lần nữa, sợ hãi như một nanh vuốt túm chặt lấy người đàn ông, anh kêu lên một tiếng kêu thảm thiết điên cuồng.
***
Sau khi mùa đông qua đi, sắc xuân của Thương Lăng cũng không ôn hòa lắm. Nhiệt độ vừa tăng lên được hai hôm thì ngay lập tức đã có một cơn mưa tuyết rất lớn đổ xuống. Những ngày xuân rét lại dường như còn giá lạnh hơn mùa đông năm ngoái rất nhiều.
Từng mái hiên nhà san sát nhau đựng đầy tuyết. Nhưng chú mèo thường ngày trèo lên cao đánh một giấc giờ đây đều ngang nhiên len lỏi vào các cửa hàng tìm kiếm ấm áp.
Thương Lăng hiếm khi có một trận tuyết lớn đến thế. Trên con đường đá xanh tối và dài, người đi bộ nào cũng đút tay vào túi rảo bước. Vắng vẻ du khách, cửa hàng nào cũng rất tĩnh lặng. Thi thoảng mới có một chủ cửa hàng bán lông da động vật, một tay cầm phất trần, một tay treo bộ lông cao bằng nửa người lên, đứng trước cửa phủi bụi.
Những đứa trẻ chơi đùa rất đông. Có người đắp người tuyết, có người đánh trận giả, tiếng cười vang khắp thành cổ.
Có một con chó to bằng nửa chó trưởng thành chạy vào trong Lâm khách lầu, bốn chân ướt rượt chạy loăng quăng một vòng trong phòng khách, sau đó nằm im dưới chiếc ghế dài. Bên trên chiếc ghế trải một miếng da chồn hoang dã, bên trên lại có một con mèo đang nằm dạng háng. Thấy chú chó chạy vào, nó cũng không sợ hãi, cứ thể uể oải nhìn xuống dưới rồi nhắm mắt lại, thoải mái duỗi chân, móng vuốt sắc lẹm nhanh chóng ẩn vào trong lớp lông mềm.
Khu nghỉ ngơi ở tầng một Lâm khách lầu khá hợp với ngày xuân lạnh giá này.
Nền gạch màu cam nhạt được lau sáng loáng, càng là ngày lạnh lẽo càng toát lên sự ấm áp. Ngọn lửa trong chiếc lò lớn đang cháy bùng bùng, bên trong có than củi đã cháy xám và ánh lửa bập bùng. Có bàn trà, trên bàn trà có loại Hồng trà đang phả khói nghi ngút.
Trong phòng rất ấm áp, bên ngoài thì tuyết trắng trời.
Ngoài chiếc ghế dài đó ra còn có một chiếc sofa bằng da thuần màu xanh lá, mang phong vị cổ xưa.
Tưởng Ly đọc sách cả chiều, giờ có hơi gà gật.
Cô nằm chợp mắt trên sofa, khi tỉnh dậy thì chiếc chăn mỏng màu be trên người đã rơi quá nửa xuống đất. Mơ hồ một lúc lâu, cô loáng thoáng mơ một giấc mơ rất dài, nhưng có lẽ cô mới ngủ được một chốc lát mà thôi.
Ngọn lửa trong lò đang cháy rất dữ, lửa than tỏa ra mùi trà thơm, thanh mát, sạch sẽ.
Cô nhìn ra ngoài cửa sổ, hình như tuyết càng lúc càng nặng hạt hơn.
Nhìn tiếp sang chiếc ghế dài đối diện, một chó một mèo đang rất thoải mái.
Chuyện những con chó mèo lang thang đi vào nhà đối với người cổ thành không phải là quá kỳ lạ, gần như nhà nào cũng chuẩn bị sẵn thức ăn cho chúng. Theo lời người dân Thương Lăng thì đều mong sống, không dễ dàng gì, vào nhà nhau coi như là duyên phận.
Tưởng Ly đang suy nghĩ không biết có nên rót ít trà cho hai vị "khách quý" không thì cánh cửa ở góc rẽ được đẩy ra.
Là Tưởng Tiểu Thiên.
Cậu gân cổ gào lên tầng: "Gia, gia ơi! Kéo về rồi, một con to lắm! Gia ơi..."
"Có mắt để thở à? Một người sống sờ sờ ngồi bên dưới ngó lên trên làm gì chứ? Hét cái gì?" Tưởng Ly người chưa thấy hình đã nghe tiếng. Cô chậm rãi đi ra từ phía sau bức bình phong, dựa vào bức tường trang trí bên cạnh.
Tuyết trên vai Tưởng Tiểu Thiên tan dần. Cậu mặc kệ không kịp phủi xuống, cười nịnh nọt với Tưởng Ly: "Tại gia của em bé nhỏ quá mà." Thấy sắc mặt cô trầm xuống, cậu lập tức đổi giọng, ngữ khí chân thành: "Chúng ta ăn thêm chút được không? Chị xem chị gầy kia, chúng ta phải mạnh mẽ còn giúp Đàm gia giật lại quán bar Meet chứ?"
Tưởng Ly không động đậy, cuộn chặt tay phải lại chống vào lòng bàn tay trái, tay trái hơi dùng sức, khớp xương bàn tay phải kêu lên răng rắc. Cô nhìn Tưởng Tiểu Thiên cười: "Em tiến lên thử xem? Xem chị có yếu ớt như em nghĩ không?"
Có mùi gió xen lẫn mùi tuyết chen vào cùng với bóng dáng cao lớn của người đàn ông.
Tưởng Ly nghiêng đầu, là Nhiêu Tôn.
Nhiêu Tôn vào cửa thì nhìn thấy Tưởng Tiểu Thiên, bèn gào lên một câu: Mày chạy quá đấy! Sau đó anh tháo đôi găng tay da màu đen xuống, cầm cả vào tay trái, gạt gạt lớp tuyết trên tóc và bả vai, ngữ khí nói chuyện với Tưởng Ly lập tức dịu dàng hơn. Anh chỉ trỏ ra bên ngoài: "Thịt bò Tây Tạng em thích ăn nhất đã kéo về rồi đấy."