Về Tân Quy trong những ngày sôi nổi này, Bảy Rô cảm thấy ngứa tay, ngứa chân. Bọn lính Chà chóp (vấn khăn có cái gù trên đầu) cùng bọn Nhật tỏ vẻ xấc láo đối với dân chúng Việt Nam. Cây "xít-trăng-xanh" của anh chỉ dùng để khử Việt gian chớ không thể dùng đánh giặc. Phải có súng trường. Bảy Rô rủ Chín Mập và Ba Bay đi Phú Xuân giật súng Nhật. Tại đó, bọn Nhật thường đi chợ từng cặp. Bảy Rô cùng hai bạn chờ chúng đi qua nơi vắng, nhảy ra tấn công giật súng, chỉ trong một vụ "đi hát" kiểu mới như thế, ba anh mang về 6 khẩu súng Nhật. Đây là chiến thắng đầu tiên của Bảy Rô. 6 khẩu súng này đủ trang bị cho một tiểu đội dân quân, 6 người không có súng được lãnh lựu đạn.
Xóm cầu Rạch Đỉa trở thành tổng hành dinh bộ đội, Ba Dương ngày đêm không ngớt luyện tập quân sự. Một ngày kia bọn Chà chóp hành quân tuần tiễu, bộ đội tản vô Rạch Miễu, ở lại chỉ còn bộ ba Bảy Rô, Chín Mập và Ba Bay. Ba Bay cũng là tay anh chị, quê ở Ba Tri, Bến Tre lên Chánh Hưng làm thợ sơn nhưng khoái "đi hát" hơn phết vôi lên vách tường. Ba Bay hợp tánh tình với Bảy Rô nên kết bạn giang hồ. Bộ ba thủ ba cây súng mút, thập thò trong mí vườn, chờ bọn Chà chóp tới. Bảy Rô nói:
- Mình đánh một trận cho tụi Chà này chạy về tới xứ cũng còn kinh hồn.
Ba Bay tưởng Bảy Rô nói phét:
- Nó chạy hay mình chạy đó cha nội?
Bảy Rô chỉ tổ ong vò vẽ ngay chân giữa cầu Rạch Đỉa:
- Tao cho đội quân cảm tử vò vẽ xuất trận khi tụi nó tới đây. Hai đứa bây chạy lên trên gió coi tao điều quân khiển tướng.
Ba Bay, Chín Mập đi trước, bỏ lại Bảy Rô một mình. Chừng bọn Chà chóp tới gần giữa cầu, Bảy Rô bắn vào tổ ong ba phát rồi sách súng chạy theo hai bạn. Tổ ong vò vẽ vỡ tan, bầy ong bay túa ra đen kịt, đụng ai đánh nấy. Bọn Chà chóp lọt vào giữa đạo quân vò vẽ, bị đánh sưng mặt, chạy tán loạn. Có đứa hoảng quá vứt súng chạy cho nhanh, có đứa lọt tủm xuống sông.
Sau trận này, tên tuổi bộ ba Bảy Rô, Chín Mập, Ba Bay nổi như cồn ở Tân Quy, lan tận Long Kiểng. Nhưng nói chung bộ đội Ba Dương chưa có nhiều súng lớn. Ba Dương bảo Năm Hà:
- Trong giới giang hồ, chỉ bộ đội Bảy Môn, Mười Lực là có nhiều súng lớn. Nhưng tới nay chưa đánh đấm gì bên Thủ Thiêm. Chú qua bên đó, cố gắng kéo họ theo mình đánh vài trận lớn tạo thanh thế.
Ba Dương ít nói, mà nói là ra lệnh. Năm Hà bấy giờ được cử làm cò, bảo Bảy Rô cùng đi với mình. (Bộ ba Bảy Rô, Chín Mập, Ba Bay luôn đi sát hai anh em Ba Dương và Năm Hà).
Bộ đội Bảy Môn, Mười Lực đóng trong đình, cách chợ Thủ Thiêm vài chục thước, Năm Hà vô đề ngay với Mười Lực.
- Bộ đội Thủ Thiêm có mấy cây súng lớn thấy mà mê. Cho tôi xem súng đi chú Mười.
Mười Lực không đợi yêu cầu lần nữa: Súng lớn là niềm kêu hãnh của người chỉ huy:
- Tụi tôi có 4 cây Trây-đơ. Súng này lấy từ chiếc máy bay hai lườn của không quân Hoàng gia Anh, loại B28, bị Nhật bắn rơi ở chùa Cô Tư ngày 5-5-1944. Nó chúi xuống sình chỉ ló cái đuôi lên…
- Sao còn có ba cây hà?
- Chia cho bộ đội Đồng Nai một cây. Tại vì mình hợp tác với họ mò súng, tháo gỡ, lau chùi, lắp ráp, công phu lắm…
Xem xong súng ống, Năm Hà đánh vào chỗ yếu của Mười Lực:
- Súng ống như thế này, sao lâu nay án binh bất động? Có phải vì yếu kém tài chánh?
Mười Lực thở ra:
- Tụi tôi hết sạch tiền rồi! Tiền của tôi và tiền của Bảy Môn hai đứa hùn lại có cả trăm ngàn, nuôi quân chưa đầy một tháng mà muốn bứt. Như vậy, anh Năm đủ biết bộ đội của tụi tôi đông cỡ nào… vùng này lại không có hãng xưởng gì để sung công như bên hai anh…
- Chắc là anh em ở đây ăn uống kham khổ lắm?
- Phải, ăn ròng khô tra với canh bí rợ. Ăn thét phát ngán.
Năm Hà tung ra đề nghị:
- Vậy tôi mời hai chú liên quân với tụi tôi. Bên tôi ít lính mà nhiều tiền. Bên hai chú thì ngược lại.
Mười Lực mắt sáng rỡ:
- Thiệt chơi anh Năm?
- Thiệt mà! Đây là ý của anh Ba tôi. Đâu chú hỏi ý Bảy Môn xem?
- Bảy Môn với Mười Lực là một. Tôi chịu là Bảy Môn chịu- Mười Lực nói tới đó thì một người to lớn, ăn mặc chải chuốt bước vào đình:
- Hai người nói xấu gì Bảy Môn đó?
- Năm Hà kêu lên:
- May quá sẵn có Bảy Môn đây, chú Mười hỏi ý chú Bảy đi.
Sau khi nghe Mười Lực nói, Bảy Môn gật lia:
- Được! Tôi chịu! Tụi tôi đang cạn túi thì có "quới nhơn" tới. Bộ đội Mười Lực, Bảy Môn là liên quân với bộ đội Ba Dương, Năm Hà thì vô địch! Hơn hẳn bộ đội Tám Mạnh- Hai Vĩnh.
Năm Hà phấn khởi:
- Hơn xa! Bộ đội Bảy Viễn cũng không bằng. Hôm biểu tình 2-9, Bảy Viễn rất nổi với bộ đồ quân sự màu xanh mới may mang khẩu súng lục to như cái đùi heo xệ bên hông, mà lính tráng chẳng thấy bao nhiêu.
Bộ đội Thủ Thiêm sát nhập với lực lượng Ba Dương bắt đầu từ đó
° ° °
Cũng trong những ngày cướp chánh quyền ấy, Hai Vĩnh bàn với ông Tám Mạnh:
- Trong các nhóm giang hồ, lực lượng Thanh niên Tiền phong của xã Chánh Hưng mình đông hơn hết. Nhưng về súng ống thì ta có phần kém.
- Phải. Ba cũng thấy như vậy. Mình phải cướp súng của Nhật mà võ trang cho bộ đội mình. Thầy Bảy Trân đã nhiều lần nhắc nhở mình điều đó.
- Con suy nghĩ kỹ rồi. Nay bàn với ba về một chuyện quan trọng. Đánh giặc trên đường phố thì chọi lựu đạn hữu hiệu hơn hết. Mình rất cần có thật nhiều lựu đạn. Toàn thành có tới 350 đội cảm tử, ít nhất cũng phải một ngàn trái. Con thấy trong Hãng Ataka ở Sở Thùng có bộ phận sản xuất lựu đạn.
Ông Tám Mạnh mừng rỡ:
- Vậy hả? Để ba biểu tụi nó tháo gỡ mấy cái máy đó đem xuống ghe. Có gì mình chống đi, làm binh công xưởng lưu động.
- Phải là một chiếc ghe chài mới chứa hết các bộ phận…
- Chài thì chài, thiếu gì dưới bến? Con muốn chọn chiếc nào tùy ý. Chủ là Ba Tàu đã ôm bạc chạy chốn từ lâu rồi.
Nhờ sáng kiến của Hai Vĩnh, nhóm Tám Mạnh có một binh công xưởng lưu động sớm nhất, các nhóm khác trông thấy mà thèm, dù lực lượng của ông Tám chỉ một trung đội, đặt tên là Trung đội 2. Ông Tám giao trung đội này cho Hai Vĩnh chỉ huy. Từ đó Hai Vĩnh chính thức được phong "Chỉ huy trưởng Trung đội số 2".
Có bộ đội thì phải đánh giặc. Đó là chuyện tất nhiên, Hai Vĩnh vận động được một lính Nhật dạy quân sự cho Trung đội 2. Anh chọn kỹ thuật tác chiến Nhật vì đánh Pháp phải đánh theo cách mới lạ, để chúng không thể đoán được mà đề phòng. Thành thật mà nói thì Hai Vĩnh vẫn còn mê cách đánh cảm tử kiểu Kamikazê lái máy bay đâm thẳng xuống tàu địch để rồi hy sinh luôn trong chiến thắng- như trong trận đánh Trân Châu Cảng mà anh đã được xem phim trước đó vài tháng. Trận đánh đầu tiên của Trung đội 2 là trận đánh tụi Nhật canh gác nhà đèn Chợ Quán. Trong trận này, khi vượt qua cầu Chữ Y, một chiến sĩ hy sinh liền được Hai Vĩnh tổ chức ngay lễ truy điệu, càng nung sôi bầu máu nóng của anh em thanh niên đang nô nức xin tòng quân. Tại Cầu Ván giáp ranh xã Bình Đăng, mười Thanh niên Tiền phong tự chặt chót ngón tay út gởi lên UBND xin được vào bộ đội. Bảy Trân đem mười ngón tay ngâm trong lọ cồn 90 độ giao Ủy ban theo yêu cầu của đám thanh niên ấy. Trong cuộc hợp tại Chợ Đệm sau khi báo cáo tình hình trong tổng Tân Phong Hạ, anh đưa lọ ấy ra cho mọi người chuyền tay nhau xem bằng chứng của lòng yêu nước trong vùng anh.
Bảy Trấn- sau mấy năm lặn vào bí mật nay trở về chiến đấu ngay trên mảnh đất quê hương của mình là Chợ Đệm- trách Bảy Trân:
- Anh báo cáo miệng được rồi. Mang lọ này tới hội nghị làm gì. Trông mấy ngón tay trắng phếu, xanh lè, thấy mà ghê!
Nhưng một lúc sau Bảy Trấn lại phát biểu khác:
- Nhìn cái lọ của anh Bảy Trân, tôi nhớ tới tổ tiên mình. Khoảng 8- 9, 10 năm trước, người dân Cần Guộc, Chợ Đệm đã đứng lên chống giặc như chúng ta ngày nay. Nhà thơ mù Đồ Chiểu đã vẽ lại hào khí Đồng Nai trong bài văn tế, tôi còn nhớ mấy câu thơ:
"Nhớ linh xưa.
Côi cút làm ăn, lo toan nghèo khó, chẳng quen cung ngựa, chưa tới trường nhung, chỉ biết ruộng dâu, ở cùng làng hộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm.
Tập lao, tập giáo, tập súng, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
…
Nào phải ai đòi, ai bắt, phen này làm ra sức đoạn kình.
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, phen này quyết ra tay bộ hổ…".
Nhờ binh vận, Trung đội 2 có được một số súng máy, hùng mạnh như quân chính quy. Hai Vĩnh quyết định ra quân lần thứ hai, đánh cầu Nhị Thiên Đường ở Xóm Củi. Đây là nơi bọn Pháp làm bàn đạp đánh ra vùng hai bên con đường số 5 từ Xóm Củi tới cầu Ông Thìn, dẫn tới quận Cần Giuộc. Muốn đánh tụi Tây ở đây, phải kéo quân đi qua một hàng rào phòng thủ do tụi Nhật đóng. Hai Vĩnh ngoại giao nhiều lần để Nhật nhắm mắt cho ta đi qua mà không kết quả. Anh quyết định đánh luôn bọn này. Chúng nó không yêng hùng như trong phim Kamikazê chút nào. Ngay loạt FM đầu, chúng đã bò càng. Sau đó Nhật đồn rùm: "Bình Xuyên có ông quan An Nam dữ lắm". Từ đó, chúng chịu nhắm mắt cho ta đi ngang qua để đánh Tây ở cầu Nhị Thiên Đường. Trận này có tiến bộ hơn trận Nhà đèn Chợ Quán một chút, nhưng vẫn chưa gây được tiếng tăm gì. Hai Vĩnh quyết định đánh trận thứ ba: đón đánh tàu cá trên kinh Cây Khô. Tàu này thường kéo một đoàn ghe chài chở gạo, heo từ lục tỉnh về. Trung đội số 2 chưa đủ sức đánh, Hai Vĩnh nghĩ tới chuyện liên quân với bộ đội Ba Dương. Đề nghị này tới rất đúng lúc Ba Dương cũng muốn đánh một trận gây thanh thế. Bộ tham mưu liên quân họp bàn kế hoạch. Bộ đội Ba Dương chặn đánh khúc trên, bộ đội Hai Vĩnh đánh khúc dưới.
Bảy Rô và Hai Vĩnh gặp nhau tay bắt mặt mừng nhưng không có thì giờ để hàn huyên tâm sự vì chiếc tàu cá đã lù lù xuất hiện. Nó kéo theo một chiếc xà lan bọc sắt dùng làm lô cốt cố thủ. Phía sau là đoàn ghe chài bốn chiếc. Bên bộ đội Ba Dương có khẩu Trây-dơ do Chín Hiệp chỉ huy. Đơn vị này phục kích từ đầu hôm tới nửa đêm mới thấy tàu cá lù lù tiến tới. Tư Tình nhắm bắn phát đầu tiên. Không trúng. Tây trên sà lan phản giáo. Tư Tình trúng đạn hy sinh tại trận. Bảy Rô nóng lòng nói với Năm Hà:
- Cho tôi lãnh cây Trây-dơ. Tôi bắn nó không chìm, tôi chịu đứt đầu!
Năm Hà chưa gật, Bảy Rô đã cùng Chín Mập, Ba Bay khiêng khẩu súng đặt tại đám lá nhà Bà Kỳ. Phát thứ nhì trúng đích. Tàu cá lủi vô bờ. Trên sà-lan, tám thằng Tây xả súng chống cự. Đánh mãi tới 10 giờ sáng mới bắt được bốn thằng Tây. Tức thì hai cánh quân chèo tam bản, xông ra thu chiến lợi phẩm. Hai Vĩnh giải bốn thằng Tây đi trước. Bốn ghe chài chở đầy gạo, heo, khô, cá… hai bên tha hồ thu. Trên tàu cá có một tủ sắt, Hai Vĩnh cho khiêng xuống tam bản đưa về ông Tám Mạnh. Giữa chiến trận không tiện bửa tủ sắt ra chia, vụ này về sau là mối bất hòa giữa hai nhóm. Ba Dương trách Hai Vĩnh giữ riêng số tiền trong tủ sắt.
Vài ngày sau, các nhóm bộ đội nhận được thư mời họp tại Chợ Đệm để lập Mặt trận số 4 chạy dài từ Thủ Thiêm đến Cầu Sập phía Tây Nam. Đến dự hội nghị có đủ mặt Ba Dương, Năm Hà, Tám Mạnh, Hai Vĩnh… Trần Văn Giàu trình bày vắn tắt nội dung hội nghị là lập Mặt trận số 4:
- Tại sao lại lấy tên là số 4? Theo kế hoạch các chiến bảo vệ thành phố, ta lập 5 mặt trận: số 1 là Thị Nghè- Bà Chiểu, số 2 là Gò Vấp, số 3 Phú Thọ, số 4 là vùng của các anh và số 5 là nội thành. Tôi cũng xin giới thiệu với các anh: anh Bảy Trân đây sẽ là Ủy trưởng quân sự mặt trận số 4. Ủy ban chọn anh Bảy Trân vì nhiều lý do: Trước hết anh là người địa phương. Bên nội lẫn bên ngoại của anh đều ở An Phú, Đa Phước. Thứ hai, anh Bảy từng phụ trách vùng này trong thời gian 15 năm qua từ năm 30 đến nay… Thứ ba là anh Bảy đã sát cánh với ông Tám Mạnh trong vụ Nam kỳ khởi nghĩa năm 40. Các anh có đồng ý về việc chỉ định anh Bảy Trân làm Ủy trưởng quân sự của các anh không?
Mọi người đồng ý. Trần Văn Giàu nói tiếp:
- Bây giờ anh em bầu một người chỉ huy…
Không ai mạnh dạn giới thiệu, Bảy Trân nói:
- Theo tôi thấy thì bộ đội anh Ba Dương đông và có nhiều súng đạn hơn hết, còn bộ đội ông Tám Mạnh thì ít, nhưng được có kỷ luật tương đối. Về tuổi tác, ông Tám Mạnh là người cao niên hơn hết, tánh tình điềm đạm, đạo đức. Tôi đề nghị ta nên chọn ông Tám…