A Cát nhìn người thanh niên tàn phế đó, rất khâm phục. Rõ ràng chàng còn rất trẻ vậy mà đã rất có định lực, nghiễm nhiên có thể ngồi bất động trên chiếc ghế đó mấy canh giờ.
Khách trong sảnh đã tản đi gần hết, các tiểu nhị đang lau dọn bàn, quét tước nhà cửa, sắp lại bàn ghế.
Đã tới giờ đóng cửa.
Vốn A Cát sẽ dập tắt lò sưởi trong phòng khách để tiết kiệm than củi nhưng nàng không làm thế. Nam nhân kia cứ chốc chốc lại ho khan, thân thể dường như rất yếu đuối, nhìn bộ dạng đó thì căn bản không chịu nổi lạnh.
A Cát vẫn luôn từ xa quan sát chàng. Tay phải của chàng vẫn luôn gắng sức vịn vào tay ghế, có thể nhìn ra chàng ngồi cũng không thoải mái chút nào.
Nàng lặng lẽ ở lại cùng chàng, qua giờ Tí, lại tới giờ Sửu, trong khách sảnh giờ chỉ còn lại mình chàng. Lúc này đến A Cát cũng đã ngáp ngắn ngáp dài rồi.
Nàng bưng cho Mộ Dung Vô Phong một ấm trà, nói: “Khuya lắm rồi, quý khách vẫn chưa đi nghỉ sao?”.
Chàng lắc đầu nói: “Tôi không mệt chút nào”.
“Tôi gọi người đưa ngài lên lầu nhé?”, nàng lại ướm hỏi.
“Tôi không muốn lên lầu”.
“Chẳng lẽ quý khách định ngồi đây thâu đêm?”, nàng kinh ngạc hỏi.
“Thê tử của tôi đã ngủ rồi, tôi không muốn đánh thức nàng”, chàng nhẹ giọng đáp.
“Trong này rất lạnh!”
“Bên cạnh tôi có chậu sưởi đây rồi”.
“Nhưng…”, cuối cùng nàng cũng từ bỏ ý định thuyết phục, đưa cho chàng một cái chuông dặn: “Có việc gì thì chỉ cần lắc chuông gọi tôi. Tôi đi ngủ đây”.
“Thật là hổ thẹn, làm phiền cô rồi. Tôi sẽ không sao đâu”, chàng đưa trả cái chuông cho A Cát.
A Cát vừa định rời khách sảnh về phòng ngủ ở phía sau thì chợt ngoài cửa chính vang lên tiếng gõ cửa.
Khách mới đến là một nam nhân mặc đồ đen, tuổi chừng ba mươi đổ lại, thân hình cao gầy, nhanh nhẹn, đôi mắt lúc nào cũng nheo nheo. Bên ngoài tuyết lớn, người này chỉ khoác một tấm áo bào mỏng màu đen, đeo trên tấm thắt lưng da màu đen rộng bản là một thanh kiếm lưỡi hẹp vỏ cũng màu đen.
Người này nhẹ nhàng tiến vào sảnh, nhìn khắp một lượt rồi liền chú ý tới Mộ Dung Vô Phong đang ngồi một góc phía xa uống trà.
“Quý khách là muốn ở trọ? Hay muốn ăn gì chăng?”, A Cát hỏi.
Nơi này dù là nửa đêm thì vẫn thường có thương đoàn đi qua, nửa đêm có khách tuyệt đối không phải việc gì hiếm thấy. A Cát sẽ chẳng bỏ qua bất cứ người khách nào.
Người áo đen nói: “Tôi muốn ăn, nhân tiện ở đây đợi một người”.
“Mời, mời vào”.
Người áo đen bước hẳn vào trong sảnh, phát hiện trên tất cả các bàn đều có một chiếc ghế dài chồng lên. Đây rõ ràng là các tiểu nhị chồng lên để tiện quét dọn, rồi cứ để thế cho tới khi trời sáng sẽ lại do tiểu nhị trực ban phụ trách kê lại tử tế.
Người này liền bước thẳng tới bàn của Mộ Dung Vô Phong, đang định ngồi xuống.
Mộ Dung Vô Phong lập tức nói: “Nơi đây vẫn còn rất nhiều bàn, hà cớ gì các hạ nhất định phải ngồi cùng bàn với tôi?”.
Chàng vốn rất ghét giao tiếp với người lạ, lại càng không thích nói chuyện với người không quen biết.
“Điều tốt của việc được ngồi cùng bàn với tôi, huynh sẽ nhanh chóng biết thôi”.
Người áo đen cứ mặc nhiên ngồi xuống, không những thế mà còn ngang nhiên ngồi đối diện với Mộ Dung Vô Phong, hai mắt nheo lại nhìn chàng một lượt.
Ánh mắt người này sắc tựa đao, bộ dạng lúc trừng mắt lên quả thật có chút đáng sợ.
A Cát làm sao dám chuốc lấy phiền phức? Vội vàng hỏi: “Quý khách muốn dùng gì?”.
“Hai bát Nạp Nhân, ba đĩa Khách Ngõa Phù, còn Sa Mộc Bồ không?”
“Còn.”
“Cho một cân. Lấy thêm nửa cân Cao Xương nữa”, nhìn người này thì rõ ràng là người Hán chính cống, nhưng tựa như lại rất quen thuộc với ẩm thực nơi đây.
“Tổng cộng là hai lượng ba cắc bạc”, A Cát nói.
Người áo đen tung cho A Cát một đĩnh bạc nhỏ.
A Cát quay người đang định gọi đầu bếp trực ban làm đồ ăn thì người áo đen chợt hỏi: “Chủ quán, tôi muốn hỏi thăm cô về một người”.
“Người nào?”
“Nơi này có nữ nhân nào lưng đeo một thanh kiếm có vỏ màu tím không?”
“Quan khách đi lại ở vùng này, có ai là không mang kiếm đâu? Làm sao tôi nhớ hết được?”
“Có người nhìn thấy cô ta đi vào trong này”.
“Bây giờ mọi người đều đã ngủ cả rồi”.
“Không cần gấp, tôi ở đây đợi cô ta là được rồi. Sớm muộn gì cô ta cũng phải đi ra thôi”, người này lãnh đạm nói.
Nói xong, đôi mắt anh ta lại dừng lại trên gương mặt Mộ Dung Vô Phong.
Một lúc sau, thức ăn nóng hổi được bưng lên, người áo đen bắt đầu từ tốn dùng cơm.
Dáng vẻ của người này khi ăn cơm cũng cực kỳ trang nhã, một miếng đồ ăn, một miếng cơm, một hớp rượu.
Anh ta mới ăn được ba miếng, “binh” một tiếng, cánh cửa lớn bị đạp tung, bốn người áo xám xông vào, thoáng cái đã tới trước bàn.
Bọn họ người cầm đao, kẻ cầm rìu, người cầm thương. Kẻ đạp cửa xông vào đầu tiên cầm trong tay tam tiết côn.
Người áo đen một tay vẫn cầm đũa, tay kia đã “tang” một tiếng rút kiếm ra. Ánh kiếm lóe lên, không một tiếng động, bốn người kia đều đã đổ xuống.
Người áo đen đứng lên, mỗi tay xách một người, mở cửa rồi lần lượt quăng toàn bộ bốn người kia ra ngoài.
Người áo đen đó tiếp tục uống một ngụm rượu, hỏi: “Ngồi một bàn với tôi thấy thế nào?”.
Mộ Dung Vô Phong nhạt giọng nói: “Đích xác không phải là một chuyện tồi”.
Thần thái chàng lạnh lùng, vừa rồi bốn kẻ kia nhe nanh múa vuốt xông vào, chàng cũng chẳng hề bị kinh động.
“Nhìn bộ dạng huynh xem ra không biết võ công, không ngờ định lực quả thật không tồi”, người áo đen nhìn chàng nói.
Mộ Dung Vô Phong phát hiện người áo đen này thường cố tình nhìn ngó khuôn mặt chàng. Điều này khiến chàng rất không thoải mái, nếu là ngày thường chàng đã quay đầu bỏ đi, chỉ đáng tiếc hiện giờ bản thân chẳng thể cử động.
“Ta họ Cố, trong nhà đứng thứ mười ba, người trên giang hồ đều gọi ta là Thập Tam. Huynh tên là gì?”, người áo đen chợt hỏi.
“Ta chỉ là khách qua đường ở đây, việc gì phải hỏi tên tuổi”, Mộ Dung Vô Phong thờ ơ nói.
Cửa lớn của khách sảnh bị đá vỡ một góc, gió lạnh căm căm từ bên ngoài lùa vào trong sảnh. Mộ Dung Vô Phong không chịu được lại bật ho kịch liệt.
Người áo đen lập tức đứng đậy, bê một chiếc bàn tới chắn ở chỗ gió lùa.
“Hình như ngươi là người phương nam. Có uống được rượu không?”, anh ta quay lại bàn hỏi.
“Người phương nam thì không uống rượu sao?”, Mộ Dung Vô Phong hỏi lại.
“Tại huynh toàn uống trà. Huynh nên biết, loại trà này là trà ngọt, là đồ uống của nữ nhân.”
“Thứ cho vào bụng mà cũng phân biệt nam nữ? Tôi lại cứ thích uống loại trà này”, chàng thản nhiên như không.
Người áo đen nhìn chàng, không nhịn được bật cười: “Khẩu khí nói chuyện của huynh thật rất giống một người tôi quen. Mà thật ra, tướng mạo của hai người cũng rất giống nhau. Tôi vừa rồi cứ nhìn huynh chằm chằm, mong huynh không để bụng. Đã hai mươi mấy năm rồi tôi chưa gặp lại người ấy. Vừa thấy huynh, tôi còn cho rằng người ấy đã quay về. Quả thật có chút kinh ngạc, có điều người ấy đương nhiên không phải là huynh. Hai chân người ấy bị tàn phế”.
Cố Thập Tam vẫn luôn ngồi đối diện Mộ Dung Vô Phong, không hề chú ý tới chân của chàng.
“Trên đời, người giống nhau chẳng phải rất nhiều sao?”, Mộ Dung Vô Phong lãnh đạm nói.
“Đương nhiên, là tôi nhận lầm. Người ấy năm đó tuổi tác cũng không khác huynh bây giờ, nhưng ai mà biết được hai mươi mấy năm sau người ấy sẽ trông ra sao.”
Trên mặt Cố Thập Tam thoáng hiện vẻ ôn hòa, tựa như đang nhớ lại một ký ức đẹp đẽ năm xưa.
Mộ Dung Vô Phong nhìn Cố Thập Tam, muốn nói lại thôi.
Cầu thang sau lưng chàng bỗng vang lên tiếng bước chân.
Cố Thập Tam ngẩng đầu nhìn, liền thấy một cô gái nhỏ nhắn từ trên lầu đi xuống, trên mặt đượm vẻ hốt hoảng lo lắng, đến khi nhìn thấy người ngồi trước mặt mình thì mới thở phào nhẹ nhõm.
Cô gái ấy cười với Cố Thập Tam rồi nói với người đối diện: “Chàng nói chuyện với bằng hữu đấy à?”.
Nàng cười trông rất đáng yêu.
“Sớm thế đã tỉnh rồi sao?”, người đối diện dịu dàng hỏi, khác hẳn với khẩu khí lạnh lùng vừa rồi.
“Nhìn kìa, tất của chàng tuột rồi”, cô gái đó quỳ xuống, nhặt một chiếc tất trên tấm đệm lên.
Chàng tựa vào bàn, đang định cúi xuống, Hà Y đã đưa tay ngăn chàng lại: “Ngồi yên, đừng cử động”.
Nàng đem chiếc tất hơ hơ qua lửa, đợi nó ấm áp rồi mới nhẹ nhàng xỏ vào chân cho chàng.
Khuôn mặt Mộ Dung Vô Phong lập tức hơi đỏ lên bởi vì Cố Thập Tam đang nhìn Hà Y, nhìn thanh Ngư Lân Tử Kim kiếm trên lưng nàng, rồi lại quay đầu đánh giá chàng một lượt, tựa như đang phỏng đoán quan hệ giữa hai người.
Cố Thập Tam nhìn hồi lâu rồi đột nhiên nói với Mộ Dung Vô Phong: “Huynh có biết đôi tay vừa đi tất cho huynh xếp hàng bao nhiêu trên Giang hồ kiếm bảng không?”. Mộ Dung Vô Phong thở dài một tiếng nói: “Xin lỗi, từ trước tới giờ tôi không hiểu rõ việc trong võ lâm cho lắm”.
Cố Thập Tam chỉ thanh kiếm của Hà Y, nói: “Tuy nói ra rất nhiều người không tin, nhưng chủ nhân của thanh kiếm này đứng hàng đệ nhất”.
Hà Y đứng dậy, cảnh giác nhìn Cố Thập Tam.
Cố Thập Tam trừng mắt nhìn Mộ Dung Vô Phong, nhấn giọng từng chữ: “Huynh để đôi tay ấy đi tất cho mình, đây không những là sỉ nhục bản thân cô ấy mà còn là sỉ nhục mỗi một người luyện kiếm”.
Không ngờ rằng Cố Thập Tam đột nhiên nói ra câu này, Mộ Dung Vô Phong hơi sững người một chút rồi đáp: “Vậy sao?”.
Sau đó trong mắt chàng chợt ánh lên nét cười, từ tốn nói tiếp: “Tôi vốn cho rằng, đây chẳng qua chỉ là đôi tay của thê tử mình mà thôi”.
Cố Thập Tam lập tức cảm thấy cực kỳ xấu hổ, nhận thấy câu vừa rồi của mình thật là quá ngu xuẩn.
Người ta là phu thê, đừng nói tới đi tất, những việc còn không tiện nói ra hơn thế cũng đều có thể làm, chẳng làm sao cả. Với lại đôi chân của nam nhân này cử động không tiện, hình như vừa mới bị trọng thương. Thê tử lo lắng cho phu quân, giúp phu quân của mình đi tất cũng là việc hợp tình hợp lý. Trong lòng Cố Thập Tam không những đã không còn xem thường hai người họ mà ngược lại càng thêm đồng tình, cảm động.
Cô gái này hoàn toàn không giống với đại đa số kiếm khách mà anh ta từng gặp, nàng không những là một kiếm khách mà còn là một nữ nhân chính cống!
Khuôn mặt Hà Y ửng hồng lên, khẽ cười nói: “Được rồi. Chàng nên về phòng thôi. Ngồi lâu như thế, người không thấy mỏi sao?”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Lấy nạng cho ta. Ta có lẽ vẫn đi được vài bước”.
Để lão bà của mình trước mặt người khác bế mình lên phòng, Mộ Dung Vô Phong thật sự cảm thấy như thế rất mất mặt.
Hà Y đem nạng tới cho chàng, chàng cặp đôi nạng vào nách, vịn chặt lấy rồi run rẩy đứng lên.
Bây giờ chàng mới phát hiện, bớt đi một chân, cơ thể nhẹ đi khá nhiều, thậm chí lúc chàng đứng dậy còn cảm thấy đỡ mất sức hơn ngày xưa.
Chàng tựa vào Hà Y, cắn chặt răng, miễn cưỡng đi một bước, mồ hôi đã ròng ròng chảy xuống. Đến bước thứ hai chàng đã không sao nhích nổi nữa. Toàn thân như cứng đơ một chỗ. Tim của chàng dội thình thịch, hoa mày chóng mặt.
Hà Y run giọng nói: “Chàng đừng… đừng đi nữa. Đợi khỏe hơn một chút rồi lại thử, được không?”.
Hà Y chợt nói: “Chàng có phát hiện ra không, đôi nạng này vừa hay rất hợp với chàng”.
Đôi nạng vốn do Lục, Sơn hai người tặng cho họ trước khi xuống núi. Bây giờ xem ra, nó vốn không phải dùng để dò tuyết.
Mộ Dung Vô Phong sững người, cúi đầu xuống, cảm thấy Hà Y nói không sai. Mũi chân của chàng vừa khít chạm đất. Đôi nạng này, bất luận là chiều cao hay là cự li từ tay nắm tới đỡ nách đều rất vừa vặn với chàng, tựa như là đặc biệt làm riêng cho chàng, nhưng rõ ràng nó được dùng rất nhiều năm rồi.
Ngực chàng chợt nhói đau, hai mắt tối sầm, cả người đổ ập xuống.
Cố Thập Tam nhìn Hà Y đưa nam nhân áo xám kia về phòng ngủ trên lầu, gần một canh giờ sau mới thấy nàng trở xuống thu lại đệm ngồi và đệm tựa trên ghế.
“Huynh ấy không sao chứ?”, thấy bộ dạng hớt hải của nàng, Cố Thập Tam không nhịn được hỏi một câu.
“Thần trí còn chút mê man, có điều cũng coi như là ngủ được rồi”, nàng đã lên được vài bậc, nghe gọi liền quay đầu lại cười nhạt trả lời.
“Dịp nào đó chúng ta ước định thời gian tỉ thí học hỏi chút nhé?”, Cố Thập Tam lập tức nói tiếp: “Tôi tới đây chính là để tìm cô nương”.
Nàng nhìn thanh kiếm sau lưng anh ta, hỏi: “Cố Thập Tam?”.
“Không sai”.
“Tôi cũng luôn muốn được thưởng thức ‘Lưu Phong Hồi Tuyết Kiếm’ của Cố đại hiệp”, mắt Hà Y sáng lên.
Cố Thập Tam không những là kiếm khách nổi tiếng nhất trong thế hệ trẻ của vùng Tây Bắc mà đồng thời cũng là một đại hiệp nổi tiếng.
“Vậy sao bây giờ chúng ta không thử một chút?”, Cố Thập Tam nói.
“Bây giờ… không được. Tướng công tôi bệnh rất nặng”.
“Huynh ấy đúng là tướng công của cô?”, sợ nàng hiểu lầm, Cố Thập Tam vội nói thêm một câu: “Tôi muốn nói, hai vị xem ra còn rất trẻ tuổi”.
“Đúng mà, không thể giả được”, nàng cười nói: “Chúng tôi kết hôn chưa lâu, đón lấy!”, nàng tung cho Cố Thập Tam một túi kẹo hạnh nhân nói: “Mời huynh ăn kẹo!”.
“Đa tạ, cung hỷ!”, Cố Thập Tam hơi kinh ngạc nhìn cô gái này, thật nghĩ không ra, gả cho một nam nhân tàn phế như thế, vì sao nàng có thể cười vui vẻ tới như vậy.
“Đúng rồi, quên chưa thỉnh giáo quý tính của tướng công cô.”
“Xin lỗi, vì an toàn của chàng, không thể tiết lộ được. Có điều, chàng không phải là người trong giới chúng ta, không biết một chút võ công nào.”
“Không sao cả. Chỉ là cơ hội tỉ kiếm quả thực khó gặp, tôi sẽ đợi cô nương”, Cố Thập Tam nói.
“Huynh đợi tôi, đây là ý làm sao?”, Hà Y giật mình.
“Bao giờ cô có thời gian thì gọi tôi một tiếng, tôi ở dưới lầu hai người trọ”.
“Sao cơ? Này!”, Hà Y còn định nói tiếp, Cố Thập Tam đã bỏ nàng lại, tự về phòng mình nghỉ ngơi.
Đêm ấy, Mộ Dung Vô Phong vì thân thể suy nhược lại nhiễm thêm phong hàn, đến sáng sớm thì lên cơn sốt cao. Một mạch hai ngày người nóng như than bỏng, đến ngày thứ ba cơn sốt mới dần lui, nhưng lại chuyển thành viêm họng, không kể ngày đêm ho khan không dứt. Thần trí thì lúc tỉnh lúc mê, cả ngày nằm liệt trên giường không dậy nổi. May mà Hà Y đã quen với việc chàng đổ bệnh, tuy lòng như lửa đốt nhưng không còn hoảng loạn như trước nữa, mà đã có thể lo liệu tất thảy đâu ra đấy. Hai người họ vốn chỉ định ở lại Cáp Hùng khách điếm một hai ngày, nay bởi Mộ Dung Vô Phong đổ bệnh, đã ở liền mười ngày trời.
Đợi đến khi bệnh tình của Mộ Dung Vô Phong thuyên giảm, cuối cùng đã có thể rời khỏi giường, Hà Y vẫn bắt chàng ở trên giường điều dưỡng thêm một ngày nữa.
Ngày hôm sau, lúc Hà Y lại bắt Mộ Dung Vô Phong tiếp tục “điều dưỡng”, cuối cùng chàng nói:
“Hà Y, ta đã khoẻ nhiều rồi”.
“Nhưng sắc mặt chàng xem ra hãy còn… hãy còn rất xanh xao”, nàng không yên tâm nói.
“Đấy chính là sắc mặt bình thường của ta”, Mộ Dung Vô Phong từ tốn nói.
“Xin chàng đấy, nằm thêm một ngày đi, đợi thân thể hoàn toàn…”
“Bây giờ ta muốn dậy, nhân tiện tắm rửa một lượt”, chàng ngắt lời nàng.
Hà Y trầm mặc, một lúc sau mới thở dài nói: “Thiếp vừa bảo tiểu nhị chuẩn bị nước nóng rồi. Thiếp đưa chàng đi”.
Hai người họ ở phòng hạng sang cho nên có luôn cả phòng ở bên trong, mỗi ngày đều có tiểu nhị đưa nước nóng tới.
Bệnh nặng mới đỡ, vết thương trên chân chàng cuối cùng cũng hoàn toàn lành lại. Nếu như giữ ấm cho tốt, cơn đau buốt tim cũng sẽ rất ít phát tác. Lúc chàng ngồi dậy đã không còn cảm thấy đau nhói nữa.
Hà Y ôm chàng tới một chiếc sạp nhỏ trong phòng tắm. Thùng tắm nằm ngay bên sạp.
Vẫn theo nếp như lúc chàng bệnh, nàng giúp chàng cởi y phục. Mộ Dung Vô Phong cầm tay nàng ngăn lại, nhẹ nhàng nói: “Nàng ra đi. Để tự ta được rồi”.
“Chàng… nơi đây… không giống trong cốc, chàng cử động không tiện”, nàng nhỏ giọng nói.
“Ta có thể lo được”, chàng lãnh đạm nói.
“Vậy thiếp… thiếp sẽ ngồi trong này, nếu chàng… nếu chàng…”, nàng lại lắp bắp.
“Hà Y, ta sẽ không sao đâu”.
“Không.”
“Hà Y!”, sắc mặt chàng trầm xuống.
“Chàng sẽ có chuyện! Chàng… có thể ngã, chàng có thể đột nhiên phát bệnh, chàng có thể… chết đuối trong thùng tắm!”, tựa như đang nhìn thấy những cảnh tượng ấy, nàng bịt mắt lại.
“Hà Y, đừng nghĩ linh tinh nữa.”
“Thiếp không nghĩ linh tinh! Những chuyện ấy hoàn toàn có thể xảy ra, cho nên thiếp nhất định phải ở bên chàng”, Hà Y lớn giọng.
“Ta từ khi sinh ra đã như thế này, tắm rửa cũng đã tự làm cả mấy vạn lần, chưa bao giờ chết đuối”. Chàng cười lạnh: “Nàng lo cho ta, vậy cũng không sao, chỉ xin nàng đừng tưởng tượng nữa. Tưởng tượng so với lo lắng còn đáng sợ hơn nhiều”.
“Thiếp không đi đâu cả”, nàng cắn răng nhìn chàng.
Hai người tức giận nhìn nhau chằm chằm.
“Hà Y, lẽ nào nàng muốn cả đời ta như một đứa bé phải dựa hết vào nàng sao?”, ánh mắt chàng càng lúc càng lạnh Iẽo, gần như đã quay trở lại vẻ lạnh lùng như lần đầu tiên hai người gặp mặt, nói năng rất mỉa mai trào phúng.
Hà Y nhẹ nhàng cầm ống quần phải trống không của chàng lên giắt vào thắt lưng chàng, rồi lại nhìn cái chân gầy guộc còn lại của chàng. Mất đi một chân, chàng đã không sao đứng lên ngồi xuống ổn định được nữa, phải dùng một tay vịn sạp mới có thể giữ thăng bằng.
“Vô Phong… để thiếp ở lại đây đi, nếu không thiếp sẽ không yên tâm”, nàng run giọng năn nỉ.
“Ra ngoài!”, chàng đột nhiên quát lên: “Ta không gọi, nàng chớ có vào!”.
Sắc mặt nàng tái nhợt, đứng phắt dậy, giậm chân rồi đi ra ngoài.
Ra tới bên ngoài, toàn thân nàng mềm nhũn, tựa vào cạnh cửa, thần kinh căng như dây đàn, nghe ngóng từng tiếng động nhỏ trong phòng.
Không được tưởng tượng, không được tưởng tượng. Nàng lẩm nhẩm nói với bản thân, nhưng trong đầu lại toàn là hình ảnh Mộ Dung Vô Phong nằm liệt trên giường, cử động khó khăn, bộ dạng khổ sở vì muốn cứu nàng mà bò nhoài người trên đất khi ở đỉnh Thiên Sơn. Nàng vừa nhắm mắt vào, liền như lại trông thấy hai vết sẹo tím tái đáng sợ mà mỗi lần thay thuốc cho chàng nàng lại bắt gặp. Bất kể là cảnh tượng nào cũng đều khiến tim nàng đau đớn, vỡ vụn.
Sau đó nàng chợt nghe “bịch” một tiếng, tựa như có vật gì đó rơi. Tim nàng đập mạnh một nhịp, tiếp đến lại nghe thấy một loạt âm thanh không bình thường khác vang lên.
Chàng vẫn không gọi nàng.
“Vô Phong!”, nàng không nhịn được, đứng ngoài cửa gọi với vào.
“Ta không sao”, bên trong vọng ra giọng nói lạnh lùng của chàng: “Nếu nàng thấy không thoải mái, sao không ra ngoài uống chén rượu đi?”.
Tuy khó khăn trùng trùng, lại còn trượt ngã hai lần, cuối cùng chàng cũng đưa được mình vào thùng nước. Chợt nghe tiếng cửa “binh” một tiếng đóng lại, rõ ràng Hà Y tức giận bỏ ra ngoài rồi.
Tắm rửa, thay y phục tươm tất, đang muốn tựa vào ghế băng rời mình tới chiếc sạp, không biết tại sao tay tự nhiên lại nhũn ra, cả người lại nặng nề đổ ập xuống. Chàng chỉ đành cười khổ. Hà Y nói không sai, nơi đây không phải là Trúc Ngô viện, tất cả những bố trí ở đây đều không tiện lợi cho chàng. Nhưng với chàng mà nói, ngã vốn cũng là một việc bình thường mà thôi, chẳng cần ngạc nhiên.
Chàng đang nghĩ cách cố đứng trở dậy, chợt nghe thấy có người gõ cửa.
“Ai thế?”, chàng hỏi.
“A Nhĩ Man. Lão bản”, một giọng đàn ông truyền lại, nói với thứ tiếng Hán cứng ngắc.
“Mời vào. Xin lỗi, tôi đang tắm rửa, không thể tiếp khách”, không rõ đã xảy ra chuyện gì, chàng chỉ đành ngồi dưới đất nói.
“Xe lăn ngài đặt đã làm xong rồi”.
“Đa tạ, liệu có thể phiền ông đưa vào đây cho tôi không, tôi… hiện đang rất cần”, chàng nhạt giọng nói, trong lòng không khỏi cảm thấy áy náy, đó nhất định là Hà Y mấy ngày trước đã thuê thợ làm.
A Nhĩ Man đẩy xe lăn tới cạnh chàng, nhìn chàng đang ngồi bệt trên thảm, liền nói: “Có cần tôi đỡ ngài dậy không?”
“Không cần, tự tôi làm được rồi”, mặt chàng chẳng biểu hiện gì, đáp lời.
Ngoài cửa chợt truyền lại tiếng bước chân rất nhẹ, một đứa bé chạy vào, đưa cho A Nhĩ Man một cái vòng gỗ, nói: “Gia gia, mẹ bảo còn có thứ này cũng là của vị… vị thúc thúc… hu hu hu… cha, con sợ!”, đứa bé ấy vẫn còn rất nhỏ, đột nhiên thấy bộ dạng của Mộ Dung Vô Phong không giống người bình thường, sợ quá khóc rống lên.
“Đi tìm mẹ đi”, A Nhĩ Man vỗ đầu con trai một cái, đuổi nó ra khỏi cửa, rồi áy náy nhìn Mộ Dung Vô Phong.
“Xin lỗi, trẻ nhỏ không hiểu chuyện”, A Nhĩ Man lúng túng nói.
“Hy vọng tôi không làm nó quá sợ hãi”, Mộ Dung Vô Phong nhẹ giọng nói, nói xong di người tới bên xe lăn, hai tay tựa lên mặt ghế, dùng sức đẩy mình một cái đã ngồi được lên. Động tác này của chàng nhanh tới mức khiến A Nhĩ Man cảm thấy không sao tin được. Mộ Dung Vô Phong làm động tác này đã không dưới vài vạn lần, sớm đã thuần thục lắm rồi.
“Cái xe này là mời vị thợ mộc nổi tiếng nhất vùng làm, vốn đã làm rất tốt rồi, lão bà của ngài còn vẫn chưa vừa ý, lại đem tới nhờ vị thợ rèn giỏi nhất vùng dùng đinh đồng cố định lại một lượt tất cả các khớp nối, rồi lại mời thợ thuộc da giỏi nhất vùng làm đệm với tựa lưng, Ngài xem thế này…”, ông ta chỉ vòng đồng trên bánh xe, vốn dùng để tiện cho việc lăn bánh xe, nói: “Trên vòng đồng này có khắc hoa văn, vốn là vị thợ rèn kia nhận rất nhiều tiền đặt cọc của lão bà ngài, cảm thấy không làm thêm một chút thì có phần không xứng với khoản tiền ấy, liền khắc thêm vào đó. Ai ngờ lúc đưa tới chỗ người thợ thuộc da kia, ông ta lại cảm thấy trời đông mà phải đưa tay tiếp xúc với vòng đồng thì thật là quá lạnh, bèn bọc lên đó hai lớp da hoẵng mềm. Kết quả là đem hết tâm huyết của người thợ rèn mà che kín lại”.
Mộ Dung Vô Phong khẽ cười.
“Đầu năm nay chiến tranh loạn lạc, thật không thể hy vọng được gì. Nhưng một nam nhân chỉ cần có được một lão bà tốt thì cũng nên biết thế là đủ rồi”, A Nhĩ Man vỗ vỗ vai chàng nói.
“Ông nói không sai chút nào”, Mộ Dung Vô Phong đồng tình.
“Lúc nãy tôi tới phòng củi bên ngoài khách điếm lấy chút đồ, vừa khéo gặp lão bà của ngài. Hình như cô nương ấy đang ngồi dưới chân tường uống rượu một mình”, A Nhĩ Man cười nói: “Tôi còn có việc, đi trước đây”.