Hà Y cài cửa lại hỏi: “Bọn họ tìm chàng có việc gì thế?”.
Mộ Dung Vô Phong hừ lạnh một tiếng, nói: “Không có gì, chẳng qua bọn họ có một vấn đề muốn hỏi ta mà thôi”, một lúc sau chàng thoáng nghĩ ngợi rồi nói tiếp: “Hà Y, đem giấy bút qua đây, ta muốn viết mấy chữ”.
Hà Y đem bút mực tới bên cạnh, dìu chàng dậy, chàng vừa thở hổn hển viết lên giấy mấy hàng chữ xiêu xiêu vẹo vẹo, một tờ không hết, lại viết thêm một tờ, viết xong, quăng bút qua một bên, nói: “Nàng đem hai tờ giấy này giao… giao cho tay họ Sơn, nói… nói ngày mai chúng ta… ngày mai chúng ta đi khỏi đây”.
Hà Y khẽ hỏi: “Chàng vẫn chưa khỏe lại, bên ngoài gió to tuyết lớn, không ở đây, chúng ta… chúng ta biết ở đâu?”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Dưới núi không xa chỗ nào cũng có thành trấn, tùy tiện tìm một chỗ ở là được”.
Hà Y chỉ cho rằng chàng với hai người Lục, Sơn không hợp nhau, nhưng không biết thực ra Mộ Dung Vô Phong lo cho nàng hàng ngày mạo hiểm săn báo, chỉ cần không cẩn thận một chút là sẽ chôn thây dưới núi tuyết. Thấy chàng quyết tâm như thế, Hà Y chỉ đành nói: “Vâng”.
Lúc nàng quay lại, Mộ Dung Vô Phong đã chìm vào giấc ngủ, tới đêm không biết tại sao lại lên cơn sốt. Sốt cao liên tiếp ba ngày, nằm trên giường luôn miệng mê sảng, dọa cho Hà Y sợ tới mất hồn vía, túc trực bên cạnh không dám rời chàng lấy nửa bước, đến áo cũng không thay, một mực chăm sóc chàng. Hai người Sơn Mộc và Lục Tiệm Phong hổ thẹn trong lòng, sớm chiều luôn đến hỏi thăm, chủ động làm cơm ngày ba bữa, đến việc bưng canh đổ nước cũng nhận hết vào mình.
Đến ngày thứ tư, Mộ Dung Vô Phong mới hồi phục chút ít, quyết ý xuống núi. Sơn, Lục hai người cũng nhất quyết đòi theo tiễn. Hà Y đuổi bắt tuyết báo lâu ngày, sớm đã quen thuộc đường đi lối lại, lên núi, xuống núi như lòng bàn tay, cũng cố chấp không muốn làm phiền hai người thêm nữa.
Sơn Mộc nói: “Bất luận thế nào, các ngươi cũng phải ở lại đây thêm một tối, đêm nay chỉ sợ là đêm gió to tuyết lớn nhất trong năm, đến mai có nắng lên, xuống núi sẽ dễ dàng hơn nhiều”.
Lục Tiệm Phong nói: “Một lúc nữa hai người bọn ta có việc ra ngoài, ba ngày sau mới về. Cho nên nếu hai vị quyết ý muốn đi, vậy chúng ta tạm biệt từ đây”.
Sơn Mộc nói: “Mọi thứ trong phòng các ngươi, chỉ cần muốn thứ gì thì cứ lấy đi. Đúng rồi!”, ông ta chỉ một đôi nạng đặt ở góc phòng, nói: “Đôi nạng này hai vị hãy đem đi. Trên đường tuyết dày, lấy chúng dò đường tránh để trượt chân”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Đa tạ. Về cuốn sách đó, hai vị còn nghi vấn gì không?”.
Lục Tiệm Phong nghĩ ngợi một lúc nói: “Việc này liên quan tới tính mạng của ta và Sơn Mộc, chúng ta chỉ muốn hỏi một câu, tám tuyến lộ trình vận khí kia, liệu có gì sai sót không? Ngươi cũng biết, chỉ một sai lầm nhỏ thôi, hai người bọn ta sẽ lập tức tẩu hỏa nhập ma”.
Quả nhiên ông ta vẫn không yên tâm.
Mộ Dung Vô Phong cười nhạt, nói: “Việc liên quan đến tính mạng, nếu hai vị không thấy yên tâm đương nhiên ta cũng hiểu. Đổi lại là ta, chỉ sợ cũng phải cân nhắc đi cân nhắc lại. Không bằng như thế này đi, hai cuốn sách có nhắc tới việc đóng mở của huyệt vị, một cuốn là Diệp thị mạch độc, cuốn kia là Vân Mộng cứu kinh. Cuốn sau là do ta viết, hai vị muốn tìm cũng không khó khăn gì. Khi đối chiếu tất cả những chỗ liên quan tới sự đóng mở của huyệt đạo theo Tí Ngọ lưu chú trong hai sách ấy, hai vị sẽ có được bản liệt kê như thế này. Hà Y, đem tờ giấy ta viết tới đây”.
Hà Y đưa cho bọn họ một tập giấy đầy những chữ tiểu khải li ti. Sơn Mộc cẩn thận nhận lấy.
Mộ Dung Vô Phong tiếp tục nói: “Bản liệt kê này là do ta dựa vào trí nhớ chép lại, không ngại nói với hai vị, tuy tim ta không tốt, cũng hôn mê khá nhiều ngày nhưng với những chi tiết này ta vẫn nhớ rất rõ ràng. Còn như làm thế nào để tính ra được, ta cũng đã viết rõ ràng từng bước từng bước rồi, tiện cho hai vị đối chiếu”.
Chàng ngừng một lát rồi nói tiếp: “Sau khi hai vị xem xét kỹ lưỡng sẽ thấy, tám đường lộ tuyến ta nói tuyệt đối không sai. Tất cả khả năng ta đều tính hết, không thừa một tuyến, không thiếu một đường. Mộ Dung Vô Phong ta trước giờ không lấy việc liên quan tới tính mạng người khác làm trò đùa”.
Lúc chàng nói, dáng vẻ rất bình tĩnh, rất tự tin. Lục Tiệm Phong ngẩng đầu nhìn chàng rất lâu, đột nhiên nói:
“Có lúc ta thật sự hy vọng ngươi là con trai ta. Ai cũng muốn có một đứa con thông minh”.
Ông ta nói câu này khiến Mộ Dung Vô Phong lại không vui. Chàng tuyệt đối không phải là người tùy tiện nhận người khác làm cha.
Lục Tiệm Phong nói: “Ngươi không cần mất vui, lời ta vừa nói chẳng làm nhục tới ngươi đâu. Từ tuổi tác tới bối phận, ta đều đủ để làm phụ thân ngươi. Tên thật của ta có lẽ vẫn xa lạ với ngươi, có điều người trên giang hồ đều gọi ta là ‘Thiên Sơn Băng vương’”.
Ông ta nói tiếp: “Cả đời ta từ trước tới giờ chưa có kẻ nào dám bảo ta ngu ngốc. Ngươi là người đầu tiên, cũng là người cuối cùng”.
Hà Y trố mắt nhìn ông ta, đột nhiên hỏi: “Tiền bối đã là Thiên Sơn Băng vương, vậy xin hỏi ông có quen biết một người phụ nữ tên là ‘Mộ Dung Tuệ’ không?”.
Nàng vừa nói câu ấy ra, trong lòng Mộ Dung Vô Phong liền chấn động, run giọng hỏi: “Hà Y, ông ta… ông ta và… và… bà ấy có quan hệ gì?”.
Hà Y không để ý tới chàng, một mực nhìn chằm chằm vào Lục Tiệm Phong, từng chữ từng chữ hỏi: “Hai mươi hai năm trước, chính vào cái đêm ông và Quách Đông Các tỉ võ, có một cô gái tên là Mộ Dung Tuệ đã biến mất khỏi Vân Mộng cốc, ông có biết việc này chăng?”.
Lục Tiệm Phong nhìn thẳng vào mắt nàng, mặt không biến sắc nói: “Ta không biết ngươi đang nói gì. Ta vốn không quen biết nữ nhân mà ngươi vừa nhắc tới”.
Nói xong, ông ta không để Hà Y kịp hỏi tiếp, nói: “Cáo từ”.
Cửa vừa khép lại, Mộ Dung Vô Phong đã lại kiệt sức mà ngã xuống.
Hà Y chỉ đành dìu chàng trở lại giường, kéo chăn đắp cho chàng, nhẹ nhàng hỏi: “Chàng đã không chịu nổi, việc gì cứ phải gồng mình lâu như vậy? Cả người thương tích, lại sốt cao mấy ngày liền, khó khăn lắm mới tỉnh lại được lại nằm bò ra giường mà viết bao nhiêu chữ. Thiếp chỉ nhìn chàng thôi mà cũng thấy mệt”, nói xong bèn đưa tay sờ trán chàng, quả nhiên lại lên cơn sốt, nàng vội vàng lấy một chiếc khăn tay nhúng vào nước mát rồi đắp lên trán chàng.
Mộ Dung Vô Phong mở đôi mắt mệt mỏi, nhìn xung quanh hồi lâu rồi hỏi: “Giờ này là giờ nào rồi? Bên ngoài còn sáng không?”.
Hơn một tháng nay, đừng nói tới việc ra khỏi cửa, trừ những lúc Hà Y ôm chàng tới phòng tắm để tắm rửa thay quần áo hàng ngày ra, đến giường chàng cũng chưa từng xuống. Sức khỏe của chàng so với lúc vừa tới đây đúng là đã có chuyển biến tốt, nhưng so với ngày trước vẫn yếu hơn rất nhiều. Không những không sao tự mình ngồi dậy được mà chỉ cần nhiễm một chút gió lạnh là lại lập tức lên cơn ho và phát sốt, tim cũng không chịu nổi nửa điểm kích thích.
Cho nên phần lớn thời gian chàng chỉ có thể nằm trên giường.
Hà Y vén một góc nhỏ tấm rèm bằng da thú, nhìn ra ngoài rồi nói: “Xem ra đã là hoàng hôn. Bên ngoài tuyết rất lớn nhưng trời vẫn chưa tối hẳn”.
Nói xong bèn tới nhà bếp, đem hâm nóng qua loa chỗ thức ăn thừa buổi trưa còn lại rồi ăn sạch sẽ. Nàng cũng nấu cho Mộ Dung Vô Phong một bát cháo, bắt chàng ăn hết mới thôi.
Sau đó nàng ngồi bên giường, dùng ngón tay nhẹ nhàng chải tóc cho chàng, nói: “Ngủ một chút đi được không? Hôm nay chàng quá mệt mỏi rồi”.
Giọng của nàng cứ như thôi miên, khiến chàng dần dần chìm vào giấc ngủ.
Ngoài song, tiếng gió, tiếng tuyết hòa vào nhau nghe như tiếng gào thét, làm lay động ánh đèn lập lòe trong phòng, càng làm toát lên một sự yên tĩnh đáng sợ.
Nàng không dám tin trong đêm gió tuyết này, bản thân và Mộ Dung Vô Phong lại cùng cô độc trên đỉnh Thiên Sơn, nơi gần với thiên đường nhất mà đời này nàng từng trải qua. Ở nơi đây lại có một căn phòng nhỏ ấm áp, đủ để người bị trọng thương được nghỉ ngơi yên ổn, lại còn có linh thảo kỳ dược, đủ để cứu lại tính mạng của chàng.
Nàng cúi thấp đầu, trong lòng thầm khấn, cảm tạ trời cao đã cho nàng một cơ hội sống trong cơn tuyệt vọng.
Hà Y vốn đã quen thuộc với phương bắc, cũng đã từng nếm qua những cơn gió bấc khốc liệt vào mùa lạnh nhất trong năm, nhưng tiếng gió nơi đây còn ghê gớm hơn, liên miên không ngừng không nghỉ khiến nàng cảm thấy sợ hãi.
Nàng vốn muốn thuyết phục Mộ Dung Vô Phong ở đây thêm vài ngày, đợi bệnh tình thuyên giảm rồi hãy xuống núi. Bây giờ, nghe tiếng gió rít đáng sợ này, nàng lại thấy dao động, ngày mai hai người nhất định phải xuống núi. Nhưng kể cả ở dưới núi, nàng cũng vẫn lo thân thể Mộ Dung Vô Phong chịu không nổi thời tiết rét mướt khắc nghiệt miền cực bắc này. Theo kế hoạch của nàng, chí ít chàng còn phải nghỉ ngơi an dưỡng thêm nửa năm nữa mới có thể miễn cưỡng lên đường về cốc. Chàng vốn dĩ không chịu nổi sự xóc nẩy, từ Thiên Sơn về Vân Mộng cốc, lộ trình xa xôi, dọc đường cứ đi rồi nghỉ, nghỉ rồi lại đi, kể cả là thuận buồm xuôi gió đi nữa, đối với chàng mà nói, ít nhất cũng phải mất năm tháng mới về được tới nơi.
Nhưng nơi đây là một nơi xa lạ, thậm chí là một đất nước xa lạ.
Nghĩ tới đây nàng chợt cảm thấy trách nhiệm của mình rất nặng nề.
Chăm sóc người bệnh tuyệt đối không phải là một công việc dễ dàng. Nếu như Hà Y chưa từng thật sự sống cùng Mộ Dung Vô Phong, có lẽ nàng sẽ vĩnh viễn không sao hiểu được những đau khổ và sầu muộn ẩn giấu đằng sau thái độ lạnh lùng của chàng.
Từ xưa đến nay chàng đều không muốn làm phiền người khác, nhưng nàng biết mỗi ngày chàng đều phải vất vả gian nan, khó khăn trùng trùng làm những việc người bên cạnh chớp mắt là làm xong. Chàng dậy khỏi giường khó, trở mình cũng khó, rất nhiều nơi không thể đi, lại còn cả bệnh ưa sạch nữa. Mỗi ngày chàng phải tắm rửa ít nhất một lần, nếu như có tiến hành chữa trị cho ai đó, chàng sẽ tắm nhiều hơn. Việc tắm rửa của chàng đương nhiên cũng rất không tiện. May mà tất cả những việc ấy ở Vân Mộng cốc đều không phải vấn đề lớn. Nhiều năm nay, các vị tổng quản không ngừng phái thợ khéo vào Trúc Ngô viện, tu sửa lại tay vịn, giá đỡ, lan can, đường dốc ở các nơi, bất cứ chi tiết nào có thể giúp Mộ Dung Vô Phong cảm thấy thoải mái hơn đều từng được bọn họ suy nghĩ xem xét kỹ càng. Cho đến cuối cùng, những phương tiện mới tăng thêm, đến chính Mộ Dung Vô Phong cũng chẳng biết dùng để làm gì.
Cho nên chỉ có ở trong nhà mình, chàng mới cảm thấy tất cả sinh hoạt đều đơn giản, tính khí cao ngạo, tuyệt đối không xin người khác giúp đỡ kia của chàng mới có thể tiếp tục. Bây giờ thân thể chàng thương tật, đi một bước cũng khó khăn, tất tần tật mọi việc đều phải trông cậy vào Hà Y chăm sóc, chàng làm sao có thể cảm thấy dễ chịu cho được. Huống chi bản thân đang ở xứ lạ, thói quen ăn uống khác hẳn ở nhà, rốt cuộc liệu chàng có thể chịu đựng tiếp hay không?
Nghĩ tới đây, nàng cảm thấy lo lắng không thôi.
Cũng bởi thời gian bọn họ sống với nhau quá ngắn. Trong quãng thời gian ngắn ngủi đó, mọi việc sinh hoạt hằng ngày của mình, Mộ Dung Vô Phong đều có thể tự lo liệu, thậm chí chàng còn rất chiều chuộng Hà Y, đến mức nàng thường quên rằng hai chân chàng không tiện cử động.
Nàng cũng không nghĩ tới việc, sau khi quen biết chàng nàng cũng thay đổi rất nhiều. Từ xưa đến nay nàng vốn là người thoáng đạt, qua loa, bây giờ phải chăm sóc cho Mộ Dung Vô Phong nàng mới chợt nhận ra mình cũng rất tỉ mỉ, rất dịu dàng. Những phẩm chất này vốn không liên quan gì tới nàng, nhưng thoáng cái tất cả những thứ ấy đều đã được “hô biến” ra rồi.
Sau này nàng cũng dần phát hiện, Mộ Dung Vô Phong hiện thực và Mộ Dung Vô Phong trong truyền thuyết rất khác nhau. Trước mặt nàng chàng rất khiêm tốn, cái gì cũng nhường nhịn nàng. Có lúc chàng cũng rất thích chuyện trò, một khi đã nói là sẽ nói liên miên không dứt. Kỳ lạ nhất chính là chàng rất hiếu động, rõ ràng không đi nổi vài bước nhưng chàng rất thích chống nạng kéo Hà Y đi tản bộ trong viện. Rất nhiều việc chàng làm không tiện nhưng vẫn thích tự mình làm. Nhưng nàng cũng đã từng chứng kiến chàng ở trước mặt học trò rất ít cười, ngữ khí nói năng cũng rất lạnh lùng, còn nếu như trước mặt chàng là một kẻ xa lạ, chàng sẽ trầm mặc ít nói, tính khí lại rất khó chịu. Bởi thế nàng thường rất mơ hồ, không biết đâu mới là Mộ Dung Vô Phong thật sự.
Con người cả ngày lạnh lùng cao ngạo ấy, bộ dạng lúc ngủ lại rất giống một đứa bé. Khi Hà Y ở bên cạnh chàng, chàng thường bất giác sán lại gần nàng, sau đó cả đêm chàng sẽ giữ chặt lấy một ngón tay hoặc một góc áo nàng, dường như sợ nàng sẽ biến mất. Đến nỗi khi nàng tỉnh lại rồi phải bỏ rất nhiều thời gian để nghĩ cách gỡ tay chàng ra.
Nàng nắm lấy tay Mộ Dung Vô Phong, nghĩ ngợi miên man, bất giác đã ngồi bất động bên giường hơn một canh giờ, cho tới khi bàn tay kia chợt động đậy.
“Đang nghĩ gì vậy?”, chàng chợt tỉnh lại, nằm trên giường hỏi.
“Không có gì, nghĩ linh tinh”, nàng cười đáp.
“Ngủ sớm một chút, hai mắt nàng thâm quầng rồi đấy”, chàng áy náy nhìn nàng.
Ba ngày liền nàng không hề chợp mắt.
Nàng tắm rửa qua loa một lượt, thay quần áo rồi trèo lên giường, leo lên người chàng, nằm tựa như một chú ếch xanh, nàng áp tai lên ngực chàng, nghe tiếng tim chàng đập.
Hằng đêm nàng vẫn thường làm thế để kiểm tra xem tim chàng có đập bình thường hay không.
“Nàng biến thành một chú ếch xanh to tướng từ bao giờ thế?”, chàng vỗ vỗ đầu nàng, cười hỏi.
Một lúc sau, nàng lại quay ra ôm lấy vai chàng, tựa như một chú thạch sùng dán chặt lên thân trái của chàng.
“Dính chặt lấy ta thế này để làm gì?”, chàng khó khăn lắm mới lật được người lại, mặt đối mặt với nàng.
Tay của Hà Y lại chạm lên hai vết sẹo sưng đỏ dưới chân chàng.
“Vô Phong, thiếp có phải lão bà của chàng không?”, nàng đột nhiên hỏi.
“Ừm”.
“Ừm tức là sao?”.
“Phải”, chàng đành đáp.
Mấy ngày nay nàng cứ như bị ma nhập, không ngừng hỏi chàng câu này.
“Sao nàng cứ hỏi ta câu này mãi thế?”, chàng không nhịn được hỏi.
“Bởi vì chàng đang muốn hối hận”, nàng bắt đầu véo cánh tay chàng: “Rốt cuộc có đúng là chàng đang hối hận rồi không?”.
“… Ừm”.
“Ừm là ý gì?”, nàng sốt ruột hỏi.
“Không phải”, chàng khẽ cười.
“Vậy thì chắc chắn rồi nhé!”, nàng áp đầu lên ngực chàng.
“Kiếp sau thiếp lại gả cho chàng có được không?”, nàng lại ngọt ngào hỏi.
“Không mệt hả Hà Y? Một kiếp còn chưa đủ sao?”.
“Chưa đủ”.
Chàng cười khổ, trong lòng vừa chua xót lại vừa cảm thấy ngọt ngào.
“Hà Y, ta là một người hạnh phúc”.
“Thiếp cũng thế!”.
Hai người ôm chặt lấy nhau.
“Kể cho thiếp nghe một chuyện đi, bây giờ còn sớm”, nằm yên một lúc, nàng lại hỏi.
“Ta đang đợi nàng kể chuyện cho ta đây. Nàng nói có khả năng Lục Tiệm Phong quen với mẹ ta, tại sao thế?”.
Nàng cười nói: “Người trong Thần Nông trấn đều kháo nhau Thiên Sơn Băng vương trong truyền thuyết là phụ thân chàng”, nói rồi đem câu chuyện Tôn Phúc kể ở Thính Phong lâu hôm trước kể lại kỹ càng một lượt.
Hà Y nói: “Truyền thuyết tuy vô bằng vô cớ nhưng thiếp lại là người thích tin vào truyền thuyết”.
“Hử?”.
“Bởi vì từ nhỏ thiếp đã làm quen với phố lớn ngõ nhỏ, biết rằng tin tức ở quán trà quầy rượu thường truyền đi rất nhanh. Có những tửu lâu còn lập một ban riêng chuyên chép lại các câu chuyện giang hồ để khách tới có thêm chủ đề mà bàn luận, rồi nhân đó uống thêm vài chén rượu, ăn thêm vài món ăn”.
“Nàng muốn nói những chuyện ấy vốn là giả?”.
“Đại khái thì bắt đầu đều không có thật, nhưng về sau, người có hứng thú càng lúc càng nhiều, chuyện càng thêm thắt lại càng như thật, bởi vì không ngừng có tin mới để bổ sung vào. Sau cùng, câu chuyện được dựng lên không sai bao nhiêu so với sự thật”, nàng ngừng một chút rồi nói tiếp: “Cho nên, tuy Thiên Sơn Băng vương không nhất định là phụ thân chàng nhưng thiếp cho rằng ít nhiều ông ấy cũng có liên quan tới việc này”.
Mộ Dung Vô Phong nhìn nàng, tựa như đang có suy nghĩ.
“Thiếp vừa nghe xong câu chuyện ấy, ngày hôm sau liền lên núi Nga My”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Việc này cũng liên quan tới phái Nga My sao?”.
“Từng nhìn thấy Thiên Sơn Băng vương ở dịp tỉ kiếm tại Phi Diên cốc năm xưa, bây giờ còn sống trên đời chỉ còn một người, đó chính là chưởng môn phái Nga My, Phương Nhất Hạc”.
“Ta từng gặp Phương Nhất Hạc một lần”, Mộ Dung Vô Phong nhạt giọng nói: “Ta giúp ông ta điều trị vết thương một lần. Bây giờ nghĩ lại, đó hẳn là vết thương ông ta bị khi tỉ kiếm với sư phụ nàng”.
Hà Y hơi biến sắc, hỏi: “Ông ta cũng từng bị trọng thương sao?”.
Nếu không phải là người mắc bệnh nguy kịch, thường sẽ không được chuyển tới phòng khám của Mộ Dung Vô Phong.
Mộ Dung Vô Phong gật đầu nói: “Là Hạ Hồi đưa ông ta tới”.
“Nói như vậy Phương Nhất Hạc nợ chàng một mạng rồi?”.
“Từ trước tới giờ ta trị bệnh thì chỉ thu tiền khám, chưa hề bắt ai nợ mạng như nàng nói”, chàng lãnh đạm nói.
Hà Y cười: “Trên giang hồ, giết người tất nhiên phải đền mạng, mà cứu người chính là người ta nợ mình một mạng”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Tóm lại quy tắc trên giang hồ thật cổ quái, có lúc rất không có lý lẽ”.
Hà Y trợn mắt nhìn chàng.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Cho dù nàng trợn mắt nhìn ta, ta cũng vẫn cứ nghĩ như thế”.
Hà Y cười nói: “Ai trợn mắt nhìn chàng? Mà người ta chính là trợn mắt nhìn chàng đấy, cũng không được à?”, nói rồi tiếp tục kể: “Khi thiếp gặp Phương Nhất Hạc, ông ta nói đúng là đã gặp Thiên Sơn Băng vương, lại cũng đã gặp chàng, từ dung mạo mà nói, hai người không giống phụ tử chút nào. Cho nên manh mối đến đây là đứt”.
Mộ Dung Vô Phong véo véo mũi nàng: “Là manh mối đứt, hay là do người nào đó không chịu cố gắng đi tìm?”.
Hà Y nói: “Thiếp tìm rồi. Nếu manh mối này đã đứt ở đây, tất nhiên thiếp sẽ phải đi tìm manh mối khác. Cũng chính là ngày đầu tiên chàng tới Vân Mộng cốc, là do người khác đưa tới, lúc ấy chàng chẳng qua chỉ là một đứa bé mấy tháng tuổi mà thôi, người biết rõ chuyện này cũng chỉ có một người”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Tôn Thiên Đức”.
“Không sai. Nghe nói ông ấy là người được ông ngoại chàng tín nhiệm nhất, là lão tổng quản của Vân Mộng cốc, nhưng không biết vì sao không tiếp tục đảm nhiệm chức vụ ấy nữa mà lại trở thành một đầu bếp xa gần nghe tiếng”.
“Ngày đầu tiên nàng tới Vân Mộng cốc, chắc đã nếm qua món ‘Tùng Thử Quyết Ngư’ ông ấy làm rồi”, chàng nhẹ giọng nói.
“Ông ấy là phụ thân của Tôn Thanh, đúng không?”, Hà Y chợt nhớ ra.
“Không sai. Tôn Thiên Đức chính là do ta tống cổ ra đấy. Bởi vì ta đã từng hỏi ông ta việc ấy, nhưng ông ta sống chết gì cũng không chịu nói. Ông ta từng thề với ông ngoại ta, tuyệt đối không tiết lộ chuyện này với bất kỳ ai”.
Hà Y nói: “Ông ta không chịu nói cho chàng, đương nhiên cũng không thể nói cho thiếp. Cho nên thiếp hiểu, đầu mối này cũng bị đứt rồi. Từ lúc ấy, thiếp đã định tới Thiên Sơn tìm Băng vương. Chỉ là… về sau phát sinh nhiều việc như thế, thiếp trở thành… trở thành càng ngày càng không thể rời khỏi chàng”.
Mộ Dung Vô Phong than thở: “Bây giờ việc này đối với ta mà nói đã không còn quan trọng đến thế. Ta không muốn nàng tiếp tục bôn ba tứ xứ, vì ta mà mạo hiểm”.
“Ha, từ bao giờ đã biết đau lòng xót xa cho lão bà rồi?”, Hà Y trêu đùa.
“Là đầu ta không tỉnh táo hay là thật vậy? Hà Y? Vừa rồi hình như có người gõ cửa”, chàng đột nhiên nói.
Hà Y ha ha cười lớn, nói: “Đương nhiên là chàng không tỉnh táo rồi, vào giờ này thì làm gì có ai mò tới chỗ này chứ? Với lại, đây há là nơi người bình thường tới được sao?”.
Còn chưa dứt lời, mặt nàng chợt biến sắc.
“Bình, bình, bình!”, quả nhiên có người gõ cửa.
Tiếng gõ cửa rất nhẹ, rất lịch sự, cũng không phải là gõ liên tục mà là gõ một lúc rồi ngừng một lúc.
“Là quỷ đó!”, Hà Y vùi đầu vào trong chăn, rúc chặt vào lòng Mộ Dung Vô Phong.
“Đừng sợ”, chàng rất muốn tự mình ra mở cửa, xem xem rốt cuộc là có chuyện gì, nhưng hiện giờ chàng chẳng nhích nổi lấy nửa bước, đến ngồi dậy còn khó nữa là.
“Chàng đừng động đậy. Chúng ta… chúng ta chết cũng không mở cửa, nó sẽ đi thôi”, Hà Y thấy chàng vịn vào thành giường, cố sức gồng mình định ngồi dậy liền vội vàng ngăn lại.
“Bình, bình, bình!”.
“Vô Phong, thiếp thú nhận, gần đây thiếp giết quá nhiều tuyết báo với tuyết kê, còn ăn không ít thạch sùng nữa”, Hà Y vội vàng tự thú.
“Nàng ăn thạch sùng lúc nào thế?”, vốn đang căng thẳng, chàng vẫn không nhịn được cười.
“Cái này… trong phòng này có rất nhiều thạch sùng, với lại… mùi vị rất ngon! Nướng qua lửa, rắc thêm một ít ớt bột… rất thơm nhé”.
“Không cần nói nữa, con quỷ này nhất định là thạch sùng tinh tới tìm nàng”.
“Cũng chưa chắc, trong bụng chàng toàn là mật báo đấy nhé! Không biết chừng đó lại là báo tinh thì sao?”, nàng cãi lại.
“Tuy là ta ăn, nhưng báo không phải là do nàng giết sao?”.
Nói vài câu, hai người đã quên hết mọi việc xung quanh mà hôn nhau thắm thiết.
“Bình, bình, bình!”. Ngoài cửa lại vang lên tiếng gõ, người gõ cửa có vẻ như rất kiên nhẫn.
Hà Y mặt mũi đỏ hồng, toàn thân mềm nhũn, nhìn Mộ Dung Vô Phong.
Không biết chàng đột nhiên lấy đâu ra khí lực, thân thể hai người bất giác đã cuốn chặt lấy nhau.
“Đồ ngốc, cẩn thận chút đi, chàng vẫn đang bệnh đấy! Chỗ này có đau không?”.
Lúc này nàng không thể không thận trọng mà bảo vệ chỗ vết thương của chàng.
Nàng biết vết thương của chàng bên ngoài tuy vẫn sưng nhưng đã dần khép miệng, nhưng nội thương thì cực kỳ nặng, bất cứ lúc nào cũng có thể phát tác.
“Hà Y, ta cảm thấy người gõ cửa ngoài kia là kẻ xấu, đợi chút nữa không chừng hắn sẽ vào lấy mạng hai chúng ta. Tranh thủ lúc này chũng ta vẫn nên tận hưởng chút hạnh phúc cuối cùng đi”, không biết từ đâu chàng lại moi ra được cái thứ lý do này.
“Làm cũng làm rồi, còn nói gì nữa? Lần nào cũng như thế, chẳng bao giờ đánh tiếng trước cả”, nàng bực bội nói.
Chàng cười cười, có chút xấu hổ.
Nàng bò dậy, giúp chàng lau mồ hôi toàn thân, thay một bộ y phục khác, rồi lại đỡ chàng nằm xuống, tiện tay tháo móc buông rèm ngủ.
Trên rèm có thêu hoa văn tựa như những chùm nho. Những hoa văn chùm nho viền quanh, một trái một phải, bao lấy hai họa tiết tựa như một loài động vật biển nào đó.
“Hà Y, ra mở cửa đi”, cuối cùng chàng nói: “Người này chịu khách khí gõ cửa lâu như vậy mà cũng không phá cửa xông vào, ít nhất cũng nên coi là khách của chúng ta”.
Hà Y nghiêm chỉnh mặc lại quần áo, đeo kiếm lên lưng, ngập ngừng một chút rồi ra mở cửa.
Mặc dù sớm đã có chuẩn bị đối mặt với một phen kinh ngạc lớn, Hà Y vẫn cứ bị kinh ngạc như thường. Bởi vì người gõ cửa là một nữ nhân, lại là một nữ nhân cực kỳ xinh đẹp.
Cô ta xem ra lớn tuổi hơn Hà Y nhưng cũng tuyệt đối chưa quá ba mươi. Thời tiết đã lạnh tới mức này mà cô ta vẫn chỉ khoác một tấm áo lông chồn rất mỏng. Loại áo này thông thường người ta chỉ mặc vào lúc đầu đông, trời lạnh hơn, bên ngoài nhất định phải khoác thêm một tấm áo dày, nếu không tuyệt đối không chặn nổi khí lạnh thấu xương. Tấm áo lông chồn này tuyền một màu đen, chất lượng cũng tuyệt hảo, cô ta mặc vào trông cực kỳ tao nhã.
Trong tay cô ta còn cầm một chiếc ô, trên ô là một lớp tuyết dày, thấy cửa mở ra cô ta bèn thu ô lại đặt nghiêng ngoài cửa, tuyết trên ô theo đó mà rơi lả tả.
“Xin lỗi, ta thấy ngoài hành lang có ánh đèn nên mạo muội tới gõ cửa. Bên ngoài gió to tuyết lớn, liệu ta có thể vào xin một cốc nước nóng chăng?”, giọng của cô ta rất ôn hòa, lúc nói chuyện cũng rất ôn tồn lễ độ.
Hà Y cười nói: “Đương nhiên, xin mời vào”.
Người lạ mặt tiến vào rồi cởi áo khoác ra, thân hình cô ta thon thả, mặc một tấm lụa tuyền là màu đen, phối hợp với làn da sáng trong như tuyết trông cực kỳ đẹp mắt.
Hà Y đưa cho cô ta một chiếc khăn trắng nói: “Trên tóc cô toàn là tuyết, lấy cái này mà phủi đi”.
Không những trên đầu cô ta có tuyết mà toàn thân phảng phất cũng mang theo hơi lạnh của tuyết, lúc mới đi vào, thân thể cô ta tựa như chìm trong một lớp sương khói lạnh buốt.
Hà Y đứng bên cạnh cũng không khỏi cảm thấy rùng mình ớn lạnh.
Mộ Dung Vô Phong lại lên một cơn ho dữ dội.
Hà Y nhẹ nhàng nói: “Xin lỗi, tướng công ta đang ốm, không thể ngồi dậy”, nói xong nàng đi tới bên giường, đem một tấm chăn lông nữa đắp thêm lên người chàng.
Chàng càng ho dữ dội, không ngừng được chút nào.
Hà Y quay lại, phát hiện lớp sương lạnh bao quanh nữ nhân kia đã biến mất, nhiệt độ trong phòng cũng dần dần ấm trở lại. Nàng cúi xuống định cho chàng uống chút thuốc, chàng lại nhỏ giọng nói: “Ta… khụ khụ… không sao cả. Nàng đi tiếp khách đi”.
Người lạ mặt ngồi yên bên lò, vươn tay ra sưởi trên lửa.
Hà Y lại cảm thấy cử chỉ của cô ta có chút làm bộ, nhìn cô ta rõ ràng chẳng hề lạnh chút nào.
Hà Y đưa cho cô ta một cốc trà nóng, người kia đón lấy, cảm ơn rồi từ từ nhấp một ngụm.
“Qúy khách đang đêm tới đây, phải chăng có việc gì?”, Hà Y ngồi xuống bên cạnh hỏi.
“Ta đến thăm bạn cũ thôi”, cô ta cười.
Thì ra là bằng hữu của Lục Tiệm Phong và Sơn Mộc, Hà Y yên tâm hơn một chút, thái độ khách khí hơn nhiều.
“Nơi đây vẫn còn vài phòng nữa, nếu cô nương thấy không tiện xuống núi có thể ở tạm một đêm. Trong này cũng có một suối nước nóng nữa, tắm rửa rất thuận tiện”, Hà Y đề nghị.
“Liệu có thể cho ta ăn chút gì đó được không? Ta thực sự rất đói bụng”, cô ta đáp.
“Nếu cô chịu vào bếp giúp ta, ta rất vui lòng nấu vài món cho cô”, Hà Y nói. Người này chưa biết là bạn hay là thù, nàng không thể để cô ta và Mộ Dung Vô Phong ở một mình với nhau.
“Rất xin lỗi, ta thật sự không chịu nổi mùi dầu mỡ”, người lạ mặt dứt khoát cự tuyệt.
Hà Y cười lạnh: “Vậy cũng rất xin lỗi. Ta muốn ở lại đây chăm sóc tướng công của ta”.
Người lạ mặt lại nói: “Nếu cô không đi nấu ăn, ta sẽ giết tướng công cô”.
Hà Y đứng bật dậy.
Mộ Dung Vô Phong trên giường lên tiếng: “Hà Y, đi nấu đồ ăn mời khách”.
Hà Y giậm chân nói: “Vậy chàng…”.
“Đi đi. Chúng ta với vị khách này không quen không biết, cô ta sẽ không làm hại chúng ta đâu”.