Bàng Khải đứng ngang hàng với Cố Hoài Việt, cười mắng: “Bọn ngáo ngơ này, cứ như tám kiếp chưa nhìn thấy con gái bao giờ.”
Đăm đắm nhìn bóng dáng dong dỏng cao phía trước, Cố Hoài Việt cười: “Có lẽ là bất ngờ lớn với họ.”
Dỡ xong vật tư, Đại đội 9 bắt đầu nổi lửa nấu cơm. Triệu Văn Giang đã nhắc nhở đội cấp dưỡng phải chuẩn bị một bữa ăn thật thịnh soạn, thịnh soạn đến mức Bàng Khải đi vào trông thấy, không kìm được phải quở mắng anh ta: “Cậu ăn bữa này không cần bữa sau nữa phải không? Cậu làm thế là vượt quá định mức ăn tiêu chuẩn của quân đội rồi đấy!”
Triệu Văn Giang bẽn lẽn cười, “Đoàn trưởng, hôm nay có khách quý đến chơi mà.”
Hiếm thấy một chàng trai miền Bắc thẳng thắn, cởi mở lại có lúc ngượng ngùng như vậy. Bàng Khải cũng chẳng buồn mắng anh ta nữa, trước khi đi dặn dò thêm: “Chú ý nêm nếm nhẹ nhàng thôi.”
Một mình Nghiêm Chân dạo bộ quanh thao trường. Cảnh quan ở đây rất đẹp, từ trên này nhìn xuống có thể nhìn thấy được từng áng mây lững lờ đan quyện vào nhau, tựa hồ như đang phiêu du nơi tiên cảnh. Cô men theo cầu thang đủng đỉnh đi xuống, lúc sắp đến bậc cuối cùng thì thấy Cố Hoài Việt và Bàng Khải đang đi tới. Hai người nói gì đó với nhau, Cố Hoài Việt bước về phía cô. Nghiêm Chân bất giác đi nhanh vài bước, Cố Hoài Việt nhíu mày, đưa tay ra nhắc: “Đi chậm thôi.” Chứng phản ứng cao nguyên của cô mới hơi thuyên giảm, không được đi nhanh. Nghiêm Chân thấy anh đưa tay ra, thoáng ngập ngừng, khóe môi khẽ cong lên, bám lấy tay anh đi xuống dễ dàng.
“Có lạnh không?” Anh cầm tay cô, hai bàn tay lạnh buốt nắm vào nhau, không cảm nhận được gì.
Mùa đông nơi đây, nhiệt độ thấp nhất có thể xuống đến âm ba mươi độ, tuy hiện giờ chưa đến lúc lạnh lẽo nhất, nhưng so với thành phố C cũng xem như là cái lạnh chưa từng có.
Anh nghĩ một lát, chợt mỉm cười: “Đi.”
“Đi đâu?”
“Tìm chỗ tránh rét cho em.”
Nghiêm Chân buộc lòng kìm nén sự tò mò cùng đi với anh. Kết quả, lúc đến nơi, cô lại không kìm được bật cười. Thì ra, chỗ được dùng để tránh rét là một căn bếp chật hẹp chỉ chừng bảy tám mét vuông.
“Thế nào hả?” Thấy cô cười, Cố Hoài Việt cũng khẽ nhếch khóe môi.
“Được ạ.” Nói rồi Nghiêm Chân sải bước vào trong, một luồng hơi ấm ùa tới khiến cô ngay lập tức cảm thấy vô cùng dễ chịu.
Đúng lúc có một chiến sĩ đang nhóm lửa ở trong, Cố Hoài Việt sai cậu ấy đi chẻ thêm ít củi mang tới. Tham mưu trưởng Cố xắn tay áo, ngồi xuống chiếc ghế con, chuẩn bị đích thân ra tay nhóm lửa. Anh thêm vào vài que củi, một lúc sau, lửa đã bén lên, chỉ cần lại gần là có thể cảm thấy được sức nóng. Nghiêm Chân vô thức xích gần lại, Cố Hoài Việt liếc nhìn cô, chợt nắm lấy tay cô: “Đừng ngồi gần đống lửa thế, cẩn thận xém vào quần áo.” Nói xong bèn lấy một chiếc ghế nhỏ đặt cạnh cô: “Ngồi ở đây đi.”
Nhìn chiếc ghế, Nghiêm Chân thoáng do dự, rồi cũng bước tới ngồi xuống. Hai người nhóm lửa, cậu chiến sĩ Tiểu Vương nửa quỳ nửa ngồi nhét thêm củi vào lò, Nghiêm Chân lo cậu ta ngồi xổm mỏi chân, liền kéo một chiếc ghế khác cho cậu ngồi. Tiểu Vương nào có được hưởng đãi ngộ như vậy bao giờ, hồi hộp đến mức không biết phải cư xử ra sao, cứ nửa đứng lên lại vội vàng ngồi thụp xuống.
“Còn phải hô khẩu lệnh cho cậu nữa à? Ngồi đi.” Nghiêm Chân cười nói.
Tiểu Vương khốn khổ xoay xở một hồi, cuối cùng cũng chịu đặt mông lên ghế. Bất chợt cậu ta vỗ đầu, nhớ ra một chuyện quan trọng: “Thôi chết, quên đưa cho Uy Phong ăn!” Nói xong tức tốc vụt ra ngoài, Cố Hoài Việt gọi cậu ta lại, “Đi cho quân khuyển ăn à?”
“Vâng.” Tiểu Vương ấp úng trả lời.
Cố Hoài Việt bỗng nổi hứng: “Cho ăn xong thì dắt qua đây nhé.”
Nhìn theo bóng Tiểu Vương nhanh nhẹn rời đi, Nghiêm Chân không kìm được than thở: “Tuổi trẻ thích thật.”
“Cậu ấy hồi hộp đấy.” Cố Hoài Việt cười, ngọn lửa chầm chậm bốc lên, có ánh sáng nhàn nhạt lướt qua gương mặt anh, họa nên những góc cạnh với đường nét rõ ràng, “Lính tráng ở đây đa số đều ít khi về thăm nhà, năm về một lần đã được coi là chịu khó rồi. Lúc anh mới đến đây, có câu nói được truyền tai nhau suốt, là ”Lên Tây Tạng khác gì lên chùa làm sư”.”
“Ở đây không có con gái Tây Tạng sao?”
Anh chầm chậm lắc đầu, “Không có. Chỗ này quá cao, đường xá xa xôi, địa hình cũng hiểm trở, bình thường các cô gái không đến đây.” Vậy nên, đừng nói một năm, cho dù là lính tráng hai năm chưa từng thấy con gái cũng từng có. Nghiêm Chân đến đây đúng là khiến họ vừa bất ngờ vừa mừng rỡ.
“Anh thì sao?” Yên lặng một thoáng, Nghiêm Chân bỗng lên tiếng.
“Hả?” Anh dùng cây cời bếp gảy cho lửa cháy đượm lên, đống lửa bật ra những tiếng nổ lách tách, trong lúc bận bịu nhất thời chưa nghe rõ lời cô hỏi.
Nghiêm Chân ngập ngừng một thoáng mới hỏi lại lần nữa, “Thế anh đóng quân ở đây, có phải cũng rất lâu không gặp...người ngoài không?”
Cô đã đánh tráo khái niệm, nuốt nhẹm hai chữ “con gái” xuống, nhưng đâu có chuyện Cố Hoài Vệt nghe mà không hiểu. Anh cười nói: “Anh còn lâu hơn người ta. Sau khi đến Tây Tạng, lần tiếp theo gặp được người khác giới đã là chuyện của ba năm sau rồi.” Ba năm liền anh không nghỉ phép. Trong ba năm đó, anh đón Tết ở Đoàn Biên phòng. Cuối cùng, ông bà cụ ở nhà không dằn lòng được nữa, một cuộc điện thoại gọi lên Trung đoàn lôi anh trở về. Ngẫm lại mình hồi đó quả thực kiêu căng ngạo mạn, cứ tự cho rằng bản thân đủ mạnh mẽ, khao khát được đi thật xa. Anh tưởng rằng cực lực rèn luyện mấy năm, thành thạo hết các loại kỹ năng quân sự là có thể gan lì cứng cỏi, thực ra không phải vậy.
Trên đời này, chung quy lại vẫn có những thứ, có thể không mảy may hao tốn sức lực đã khiến người ta buông súng đầu hàng. Tình thân, tình bạn, hay là tình yêu, lực sát thương của chúng, không thua kém gì súng đạn.
Lúc định thần lại, Tiểu Vương đã dắt chú quân khuyển đến. Không phải giống chó gì đặc biệt, là một chú chó chăn cừu Đức. Điều làm Nghiêm Chân tò mò là tên của chú chó: “Nó tên Uy Phong thật à?”
Thấy Nghiêm Chân thắc mắc về cái tên này năm lần bảy lượt, Tiểu Vương trả lời thận trọng: “Vâng, là tên em đặt cho nó. Nó lợi hại lắm ạ, hội thi quân khuyển Quân khu, nhiều hạng mục kỹ năng đều siêu hơn những con khác!” Nhắc tới chuyện này, gương mặt Tiểu Vương ánh lên vẻ tự hào.
Cố Hoài Việt cúi xuống, ngắm nhìn chú quân khuyển, anh lấy quả bóng trong tay Tiểu Vương ném đi, Uy Phong lập tức co cẳng chạy đi gặm quả bóng nhặt về. “Nuôi bao lâu rồi?”
“Mười một tháng ạ.”
Anh cười: “Ừ, được đấy.”
Tiểu Vương kéo dây xích, Nghiêm Chân ngồi xổm xuống, thử vuốt ve Uy Phong. Chú quân khuyển Uy Phong lập tức rùng mình, quẫy quẫy cái đuôi, phát ra tín hiệu thông báo “người lạ chớ lại gần”. Nghiêm Chân tức thì rụt tay lại, mặt mũi tiếc nuối nhìn Uy Phong. Chú ta liếc xéo cô một cái, rồi khinh khỉnh tránh xa, Nghiêm Chân không khỏi càng thêm rầu rĩ.
Tiểu Vương khổ sở nhịn cười, Cố Hoài Việt nhìn cô, nói: “Đưa tay ra đây.”
Nghiêm Chân giơ tay ra, anh liền cầm lấy tay cô đưa lại gần Uy Phong, thấy chú ta không chống cự, Cố Hòa Việt mới từ từ thả tay mình ra. Cuối cùng Nghiêm Chân đã chạm được vào Uy Phong, cảm giác mềm mịn quả thực khác hẳn tính khí kiêu ngạo của chú ta.
Cố Hoài Việt lấy cái màn thầu trong tay Tiểu Vương, nhét vào tay Nghiêm Chân: “Em cho nó ăn thử xem nào.”
Quân khuyển cũng có bữa ăn tiêu chuẩn riêng, chiếc màn thầu này chỉ có thể xem như đồ ăn vặt của nó. Nghiêm Chân bẻ một miếng đưa tới gần miệng Uy Phong, chú ta hiển nhiên không quen với kiểu đút cho cún con ăn của cô, nhưng đồ ăn ngon ở ngay trước mặt, vẫn đưa mũi ngửi ngửi, rồi gặm lấy ăn. Nghiêm Chân thích thú quay ra nhìn Cố Hoài Việt, anh cũng bị lây theo niềm vui sướng trong ánh mắt cô, nở nụ cười hiền hòa. Nghiêm Chân có thể cảm nhận được rõ ràng sự khác lạ của Cố Hoài Việt, biểu cảm thường ngày của anh rất ít, khuôn mặt thường thấy luôn trong trạng thái không cảm xúc, nhưng kể từ khi đến nơi đây, từ khi đặt chân tới Đại đội 9 này, anh trở nên hiền hòa hơn rất nhiều. Cô đoán, có lẽ là vì từ sâu trong đáy lòng anh coi nơi đây như mái nhà thứ hai của mình.
Tiền đồn trong mây của Đại đội 9 tối nay náo nhiệt chưa từng thấy. Những người chiến sĩ này trường kỳ trấn giữ ở đây, nhưng họ không hề quên mất niềm vui bởi những tháng ngày trống vắng, cô đơn. Ngược lại, khi đến lúc cần vui tươi thì họ hăng hái hơn bất cứ ai.
Triệu Văn Giang kéo hết mấy bình rượu về trước mặt mình, cười tít mắt nói với Bàng Khải: “Đoàn trưởng, chúng em đã bàn bạc rồi, rượu này không thể uống không được, anh hát một bài mới có rượu cho anh uống!”
Bàng Khải liếc xéo Triệu Văn Giang, biết đám người này hễ ham vui là mất hết hình tượng, anh ta đẩy Cố Hoài Việt: “Cậu hát đi.”
Tham mưu trưởng Cố điềm tĩnh trả lời: “Em không uống rượu.”
“Thế thì cũng phải hát.” Bàng Khải nói, “Hát bài tủ kinh điển của cậu ấy.”
Bài tủ kinh điển? Nghiêm Chân bỗng thấy tò mò vô cùng.
Câu chuyện được kể như sau, lúc Tham mưu trưởng Cố Hoài Việt còn là lính Trinh sát, cấp trên cử một tổ Văn công đến Đoàn Biên phòng để...biểu diễn thăm hỏi. Nói là biểu diễn thăm hỏi, nhưng tổ văn nghệ kia về cơ bản không thể kéo dài buổi diễn đến tận ba tiếng đồng hồ được, vẫn phải bắt mấy cậu trai tráng của đồn Biên Phòng tham gia cùng cho đủ số lượng. Đoàn trưởng phát lệnh, mỗi Tiểu đoàn bắt hai người ở mỗi Đại đội lên. Thế là Đại đội trinh sát của Tham mưu trưởng Cố túm ra hai người, trong đó một người là Cố Hoài Việt. Xét thấy Tham mưu trưởng Cố sở hữu chất giọng nam trầm, lãnh đạo Đoàn Văn công đã bố trí để anh hát một bài đơn ca, còn dặn dò anh phải thể hiện thật tốt, vì lúc biểu diễn có thủ trưởng đến dự. Phen này làm lớn đây, toàn Đại đội ồn ào hẳn lên, ai cũng tích cực giới thiệu ca khúc cho anh.
Cầm danh sách bài hát, phản ứng đầu tiên của Cố Hoài Việt là cau mày: “Sao bài nào bài nấy đều tầm thường thế này.” Gì mà yêu đương tình ái, hát hò thế này làm sao lên được sân khấu? Cuối cùng vẫn là Tham mưu trưởng của Trung đoàn ra tay, đóng góp một bài hát về quê hương –Dân ca thảo nguyên.
Buổi diễn tối hôm đó rất thành công, Đoàn trưởng cùng ban lãnh đạo thưởng thức trọn vẹn chương trình. Đợi đến khi Cố Hoài Việt đã hát xong, Đoàn trưởng nghiêng đầu hỏi cảm nhận của thủ trưởng. Vị thủ trưởng gật gù, nói một câu khiến Đoàn trưởng khó lòng quên được: “Hay thì có hay, nhưng mà đóng quân trên cao nguyên sao lại hát bài dân ca thảo nguyên?” Bàng Khải kể chuyện sống động như thật, Nghiêm Chân nghe xong cũng không nhịn được cười.
Giờ thì hay rồi, các chiến sĩ không những chĩa mũi nhọn vào Cố Hoài Việt, còn gào lên: “Chị dâu hát cùng đi!”
Nghiêm Chân không chống đỡ nổi tiếng hô đồng thanh của các chiến sĩ, nhìn sang Cố Hoài Việt. Nét mặt anh vẫn giữ vẻ hiền hòa, là biểu cảm chỉ xuất hiện khi con người ta chìm đắm trong những kỷ niệm êm đềm. Anh nghiêng đầu lại, nhìn cô, cầm tay cô, nói: “Được không?”
Cô còn có thể nói không được hay sao?
Thái độ ngoan ngoãn vâng lời của Nghiêm Chân làm cho các chiến sĩ khấp khởi hy vọng, từng người hét vang: “Ngọt ngào! Hát Ngọt ngào đi!”
Cố Hoài Việt coi như đã hiểu ra, đây chắc chắn là âm mưu đã được tính toán từ trước, lấy Bàng Khải ra làm lá chắn, anh mới chính là mục tiêu thực sự. Có điều, chuyện đến nước này anh cũng không tức giận nổi nữa, anh nghoảnh sang nhìn Nghiêm Chân: “Em bắt nhịp hay là anh?”
Mặt Nghiêm Chân đỏ hồng: “Hát Ngọt ngào thật ạ?”
“Chứ biết làm sao?” Anh cũng đành chịu.
Nghiêm Chân thẹn đỏ cả mặt cúi gằm, nói lý nhí: “Anh bắt nhịp đi.”
“Được.”
Cố Hoài Việt hắng giọng, ngẩng đầu, Nghiêm Chân tay che mặt, lý nhí hát theo. Không khí buổi liên hoan nhờ có bản song ca này lại càng thêm tưng bừng, Triệu Văn Giang phải ra tay ổn định lại tình hình: “Được rồi, Tham mưu trưởng cũng đã đóng góp giọng ca rồi, anh em ta cũng không thể ngồi không được, nào, lên thôi!”
Hết thảy các chiến sĩ dưới sự chỉ huy của Triệu Văn Giang đồng thanh hát một bài hát kinh điển được cải biên lại từ bài Ba điều kỷ luật, tám mục chú ý: ”Người chiến sĩ Cách mạng ai cũng cần có vợ, anh cần, tôi cần đâu ra mà nhiều thế! Tuân thủ kỷ luật sẽ phát cho mỗi người một vợ, không biết nghe lời phát cho một bà chằn!”
Nghiêm Chân nghe mà mặt mũi nóng bừng, đứng ngồi không yên, Tham mưu trưởng Cố buộc phải giơ tay ra ôm lấy cô. Bàng Khải nhìn khung cảnh rộn ràng trước mắt, sau tiếng cười, không kìm được trộm mắng một câu: “Một lũ ngáo ngơ!”
Tối hôm nay, tiền đồn trong mây rộn vang tiếng cười, quyện lẫn với sắc đêm, dường như sắp làm tan chảy cả núi tuyết ngàn năm trên đỉnh cao nguyên kia. Cao nguyên này ở trong ký ức, dường như đã không còn lạnh lẽo.
***
Sáng hôm sau khi thức dậy, Bàng Khải dẫn đội xe trở về Đoàn Biên phòng. Vì sắp cuối năm, Trung đoàn rất bận rộn.
Thời gian của Cố Hoài Việt và Nghiêm Chân cũng eo hẹp, nên ăn sáng xong, họ liền lên đường đi thăm đồng đội. Thời điểm trước lúc khởi hành, Nghiêm Chân mới biết, thì ra người đồng đội mà Cố Hoài Việt nhắc đến, không phải ở Đại đội 9.
Triệu Văn Giang phái riêng một người đi cùng họ, nhưng mới đi chưa được bao xa đã bị một hố tuyết trước mặt cản lối. Cố Hoài Việt ngẫm nghĩ một lát, quyết định bỏ xe đi bộ. Tiểu đội trưởng Lão Vương cả kinh: “Thủ trưởng, giờ muốn đi bộ lên phải mất một, hai tiếng đấy ạ!”
Cố Hoài Việt hiển nhiên biết rõ điều này, anh nói: “Cậu lái xe về Đại đội trước đi.”
Lão Vương vội nói: “Vậy không được. Đại đội trưởng dặn em bảo vệ sự an toàn của anh và chị dâu, trên đường đi có chỗ nguy hiểm, em phải đi theo để nhắc anh.”
Cố Hoài Việt cười điềm đạm: “Lão Vương, cậu quên tôi là lính từng đóng quân ở đây à?”
Lão Vương nghẹn lời một lúc, ánh mắt chuyển sang nhìn Nghiêm Chân đang xuống xe, như trông thấy cứu tinh, “Thế chị dâu đi được không ạ?”
Dứt lời, cả hai người cùng nhìn về phía Nghiêm Chân. Nghiêm Chân vất vả lắm mới chỉnh được chiếc mũ ngay ngăn, cả khuôn mặt chỉ còn lộ ra hai con mắt. Nhìn cô, Cố Hoài Việt hơi do dự.
“Em đi được.” Cô kéo chiếc khăn quàng cổ che kín miệng xuống một chút, vội vã cam đoan.
Anh nhìn cô đăm chiêu giây lát, đôi mắt xinh đẹp toát ra vẻ kiên quyết kia không hiểu sao lại khiến anh thấy yên tâm. Cố Hoài Việt ra quyết định, vỗ vai lão Vương: “Được rồi, cậu về trước đi. Chị dâu cậu, cô ấy đi cùng với tôi.”
Lão Vương đành trơ mắt nhìn hai người từ từ đi xa. Thực chất, sự lo lắng của Lão Vương không hề thừa thãi, vùng núi này cách mực nước biển rất cao, con đường núi gập ghềnh khúc khuỷu, đi lại không những tốn công sức mà còn hao tổn cả tinh thần. Suốt dọc đường, Cố Hoài Việt cố ý đi thật chậm, một là để giữ sức, hai là vì Nghiêm Chân ở ngay sau anh. Mặc dù từng bước, từng bước theo sau anh rất sát nhưng cô bước đi vẫn cực vất vả.
Anh sải bước qua cây cầu bằng thân gỗ đã được đóng đinh chắc chắn, đứng ở đầu này cầu, giơ tay về phía Nghiêm Chân: “Đưa tay cho anh.” Nghiêm Chân cẩn thận dè dặt giơ tay ra, bàn tay lập tức được nắm chặt lấy, đi qua chiếc cầu độc mộc chật hẹp an toàn. Đứng ở đầu này cầu, cô thở hổn hển, giữa tiết trời như vậy trên trán lại lấm tấm mồ hôi. Khó khăn lắm mới hồi được sức, cô nhìn Cố Hoài Việt cười như mếu: “Em vô dụng lắm phải không?”
Cố Hoài Việt nhìn cô, khóe môi nhếch lên thành một đường cong cong: “Em biết không, hơn bốn ngàn năm trăm mét trên mực nước biển là khu cấm địa nguy hiểm tính mạng với con gái đấy.”
“Thế nên là?”
“Thế nên, em đi được đến tận đây là đã khiến anh phải nhìn em bằng con mắt khác rồi.”
Ồ? Hình như đây là lời khen? Nghiêm Chân nghiêng đầu, khẽ mỉm cười.
Nơi họ cần đến cách mực nước biển còn cao hơn Đại đội 9. Lên đến đây, cơ thể cô vốn đã thích nghi được với phản ứng cao nguyên lại bắt đầu có dấu hiệu đau nhức. Vậy nên Nghiêm Chân cố gắng không nói chuyện, đi theo sát Cố Hoài Việt, bước thật chậm rãi. Nhưng hình như con đường này rất dài, cô phóng tầm mắt trông ra xa một chút chỉ thấy tuyết trắng mênh mang, núi tuyết trùng điệp.
“Còn bao lâu nữa mới đến ạ?” Cô thở gấp hỏi.
“Sắp rồi.” Cố Hoài Việt nói rồi kéo tay cô, dắt cô trèo lên một sườn dốc. Nghiêm Chân theo hướng của anh, rẽ qua một khúc quanh, bất giác ngẩng đầu lên, liền bị cảnh tượng trước mắt làm cho thẫn thờ.
Bầu trời xanh thăm thẳm chừng như bỗng chốc được phóng lớn lên bày ra trước mắt, mây phía chân trời cảm giác cũng ở ngay gần cô vậy, tựa hồ như đưa tay ra là bắt được. Nghĩ vậy, Nghiêm Chân kiễng nhẹ chân lên, đưa tay ra với. Đương nhiên là không với tới được, cho dù cô đã vươn thẳng tay, kiễng hẳn chân lên cũng vô ích. Nghiêm Chân khẽ cười, cười bản thân mình ngốc nghếch.
Lúc thu lại ánh mắt, cô lại trông thấy một ụ đất nhỏ cách đấy không xa. Nói chính xác hơn phải là ụ tuyết. Ụ tuyết này đắp không cao, nhưng chỉ cần nhìn thấy thì sẽ có cảm giác nó sừng sững đứng lặng ở đó từ rất lâu rồi. Dường như ngay tức thì cô đã nhận ra được điều gì đó, vội quay đầu nhìn Cố Hoài Việt. Đúng lúc anh cũng nhìn sang, nói với cô hai chữ: “Đến rồi.”
Một phần mộ nhỏ - đồng đội của anh, ở tại nơi đây.
Nghiêm Chân có phần không dám tin. Cô thả tay anh, chừng như vô thức đi tới bên tấm bia mộ kia. Đó là một tấm bia mộ rất lạ lùng, không có ảnh, không đề tên, chỉ có một hàng chữ nhỏ ghi lại thời gian lập bia, tính ra, cách đây đã mười năm. Cô ngoảnh đầu nhìn Cố Hoài Việt, nét mặt bình thản của anh đã chuyển thành trang nghiêm.
Cô chợt thấy tò mò không biết ai là người được chôn trong mộ, còn anh như hiểu được suy nghĩ của cô lúc này, khẽ hỏi: “Em còn nhớ, anh từng nhắc đến người đồng đội này với em trên đường đến không?”
“Nhớ chứ.”
Khóe miệng Cố Hoài Việt giãn ra, xem như đang cười: “Cậu ấy đi lính cùng năm với anh, bọn anh cùng là Tiểu đội trưởng trong một Đại đội. Cậu ấy đến từ Sơn Thành, nơi đó quanh năm sương phủ không nhìn thấy ánh mặt trời. Cũng giống như Đại đội trưởng, cậu ấy ở lại đây là vì lý do đơn giản ấy.”
Vầng dương, mây trời gần ngay gang tấc.
Thực ra Nghiêm Chân rất muốn nói, chúng đều ở cách rất xa. Rất nhiều thứ nhìn thì có vẻ ở trong tầm tay, thực chất chỉ cần giơ tay ra là sẽ có thể cảm nhận được khoảng cách xa vời.
“Vậy giờ anh ấy, được chôn cất ở đây sao?”
“Ừ.” Cố Hoài Việt bước lên trước, cúi người phủi đi một lớp tuyết dày phủ trên mộ bia, ở hơn nửa năm đều là mùa tuyết như nơi đây, kỳ thực hành động này cũng chẳng có tác dụng gì. “Mười năm trước, cậu ấy lái xe qua chỗ này, đúng lúc gặp phải tuyết lở.” Giọng anh bình thản, tựa như đang kể một câu chuyện từ rất xa xưa. “Ở cách mực nước biển hơn năm ngàn mét còn đóng một tiền đồn nữa, mỗi lần đưa đồ tiếp tế cậu ấy đều lái xe, cuối cùng chỉ một lần đó gặp tuyết lở, cả người và xe đều chôn vùi ở đây.”
Dù đã chuẩn bị sẵn tâm lý, Nghiêm Chân vẫn bàng hoàng. Cố dán mắt nhìn tấm bia mộ, ấp úng hỏi: “Sao đến tấm ảnh cũng không có?”
“Khi đó Đại đội trưởng tìm khắp Đại đội cũng không tìm được bức ảnh nào của cậu ấy. Mà lúc cậu ấy được đào lên thì máu thịt bê bết đông cứng lại rồi.”
Cảnh tượng đó, ngay cả hồi tưởng lại cũng là một chuyện đau lòng. Nghiêm Chân hít sâu một hơi, ngón tay run lẩy bẩy. Cố Hoài Việt cảm nhận được, thoáng chần chừ rồi nắm chặt lấy tay cô.
“Mười năm qua đây là lần đầu tiên anh về thăm lại cậu ấy.”
“Vì sao?”
“Anh không dám.” Cố Hoài Việt nói, “Đứng trước cậu ấy, anh luôn cảm thấy mình không phải một người lính.”
Thời tuổi trẻ, anh cũng từng không cam lòng chịu đựng trống vắng cô đơn, không muốn nán lại đây lãng phí cuộc đời. Vậy nên thời gian ấy anh sa sút tinh thần, không làm được gì nên chuyện. Người đồng đội này thay Đại đội trưởng giáo huấn anh, nói anh có lỗi với bộ quân phục đang mặc trên người.
Giờ đây cuối cùng anh đã dám đến thăm, không phải bởi anh đã lăn lộn từng trải thành tài, mà là nhớ tới một câu người đồng đội đã qua đời này từng nói. Anh ấy nói: “Ở đây tốt lắm, mình cắm rễ sống ở đây không về nữa. Vợ thì cả đời này chẳng mong chờ gì lấy được, mình trông cả vào cậu đấy, tổ chức một lễ cười cao nguyên thì tốt biết mấy!”
Giờ đây anh đã có gia đình, cũng đã có một người thực sự có thể đến cùng anh. Vì vậy, anh đã đến. Nghĩ tới đây anh chầm chậm giơ tay lên, đưa ngang vành mũ, thực hiện một động tác chào trang nghiêm theo đúng nghi lễ quân đội.
Nghiêm Chân nhìn bóng lưng anh, chợt cảm thấy cay cay nơi đầu mũi. Cô ghi nhớ một câu mà bố đã từng nói, chỉ có những người từng là lính mới hiểu được sức nặng của hai tiếng đồng đội này, bởi vì đợi đến khi ra khỏi quân ngũ rồi thì sẽ không còn tìm được một người có thể sát cánh cùng mình đổ máu, đổ mồ hôi mà không rơi nước mắt nữa. Gọi nhau một tiếng đồng đội, là chuyện mang theo cả một đời.
Có lẽ cô sẽ mãi mãi không sao hiểu hết được cái tình và cái nghĩa trong câu nói ấy. Nhưng có một điều cô thấy rất vui mừng.
Đó chính là, cô không hề lùi bước, cô đã cùng anh đi đến được đây.