Cố Yến hành động dứt khoát, chỉ bảo họ về trước. Người nhà của người chết không hiểu chuyện gì, lại thêm nỗi đau mất con, vừa mở miệng đã mắng Cố Yến là đồ lòng lang dạ sói, vô lương tâm. Ôn Ngư vốn tưởng Cố Yến sẽ không để tâm đến nỗi khổ của thường dân, không ngờ hắn chỉ khẽ chau mày, nói một câu mong họ nén bi thương.
Không ngờ hắn vẫn còn chút tình người.
Thi thể này tạm thời không khám nghiệm ra được gì, nàng cứ cảm thấy mình đã bỏ sót điều gì đó. Nàng bèn cởi khăn vải và tạp dề, rửa sạch tay rồi đi ra ngoài. Vừa đến chính sảnh, tiếng ồn ào đã như thủy triều ập tới, loáng thoáng có thể nghe được những từ như “con của ta”: "giải oan”.
Bên ngoài chen chúc toàn những người ăn mặc như nông dân, trong tay còn cầm cuốc và liềm, trông rất giống cha mẹ của Lưu Tiểu Chiêu lúc trước.
Một người phụ nhân đen gầy thấy Ôn Ngư đi ra, cũng chẳng biết ai là quan lớn quan nhỏ, bèn quỳ phịch xuống đất: “Thanh thiên đại lão gia ơi, con trai của ta mất tích ba ngày rồi, chúng ta… chúng ta thật sự hết cách rồi!”
Ôn Ngư vội vàng đỡ bà dậy, hỏi: “Con trai của bà bao nhiêu tuổi, bị lạc ở đâu?”
Người phụ nhân kể lại rành mạch: “Con trai ta năm nay mười một tuổi, tên là Hoàng Nhị Cẩu, ngày thường hay chạy đi chơi khắp nơi. Ba ngày trước nó lên núi chơi rồi mất tích luôn từ đó.”
Ba ngày, một cậu bé mười một tuổi...
Ôn Ngư hỏi: “Đã hỏi thăm họ hàng, bạn bè hết chưa? Có tìm kiếm ở khu vực gần đó không?”
Người phụ nhân nước mắt lưng tròng, gật đầu: “Tìm hết rồi ạ, nhưng không thấy chút tung tích nào cả!”
Kinh thành lớn như vậy, rốt cuộc đã có bao nhiêu đứa trẻ mất tích?
Cố Yến lập tức định phái một đội quan sai đi tìm người theo vị trí mà người phụ nhân đã nói. Nào ngờ, đội quan sai này còn chưa kịp ra khỏi cửa thì đội được phái đi trước đó đã quay về. Người dẫn đầu chắp tay nói: “Đại nhân, đã tìm thấy thi thể một bé trai trong khu rừng phía tây.”
Như sét đánh ngang tai, người phụ nhân vừa nghe xong, thân thể cứng đờ rồi mềm nhũn ngã xuống.
“Dán cáo thị trong thành, nhà nào có con trẻ đi lạc trong mấy ngày gần đây, bất kể thời gian nào, đều phải đến Đại Lý Tự trình báo. Bức họa của Hoàng Nhị Cẩu đã vẽ xong chưa? Ngoài ra, ban bố lệnh mới, kể từ hôm nay thực thi lệnh giới nghiêm!”
Cố Yến liên tiếp ra lệnh nhưng người đầu tiên lên tiếng phản đối lại là một vị Thiếu khanh tên Phúc Chính.
Hắn mặt trắng không râu, thân hình hơi mập, năm nay đã ba mươi sáu tuổi. Ngày thường, thành tựu làm việc của hắn chỉ ở mức bình thường, nhưng lại cực kỳ giỏi nịnh hót bợ đỡ. Nếu không phải nửa tháng trước Hoàng Thượng đột nhiên hạ chỉ điều thế tử An Viễn Hầu về làm Đại Lý Tự Khanh, thì vị trí này bây giờ ai ngồi cũng chưa biết chừng.
Phúc Chính vẫn giữ vẻ khéo léo giả lả, do dự nói: “Đại nhân, chuyện này… hạ quan thấy rằng, Đại Lý Tự tuy có quyền ban lệnh giới nghiêm, nhưng hay là chúng ta nên hỏi ý kiến của Hoàng Thượng trước rồi hãy quyết định? Hạ quan không có ý nghi ngờ ngài, chỉ là cảm thấy… e rằng Trưởng công chúa sẽ không vui.”
Lại dám lôi cả Trưởng công chúa ra để gây áp lực với hắn.
Ánh mắt Cố Yến lóe lên vẻ tàn nhẫn, hắn cười lạnh một tiếng: “Ngươi đã bất mãn như vậy, hay là để bổn vương xin ý kiến của Hoàng Thượng nhường lại vị trí này cho ngươi ngồi nhé?”
Phúc Chính cứng họng, nhưng vẫn cố nói: “Hạ quan thấy không ổn… Trước đây Hoàng Thượng đã hạ lệnh, vụ án này không được làm lớn chuyện.”
“Làm lớn hay không là do bổn vương quyết định, trời có sập xuống cũng đã có bổn vương chống đỡ, Thiếu khanh đại nhân vội cái gì? Ngươi cứ mặc kệ bổn vương tìm đường chết đi, đợi đến khi bổn vương bị Hoàng Thượng chém đầu, ngươi mới có thể thuận lợi mà “phù chính” giống như tên của mình.”
Tâm tư thầm kín bấy lâu bị vạch trần, khuôn mặt béo của Phúc Chính đỏ bừng, hắn ấp úng nói: “Hạ quan… hạ quan cũng chỉ vì lo cho đại nhân thôi…”
Hắn mới nói được nửa câu, một giọng nói khác đã vang lên từ phía sau: “Chà, thảo nào ở Xuân Phong Lâu tìm mãi không thấy Phúc đại nhân. Ngài cả tám trăm năm mới ghé quán một lần vào giờ Mão, hôm nay mặt trời mọc ở hướng Tây đấy à?”