Hàn Nhạn Thanh đi xuống địa lao, ánh sáng dần nhạt đi, cây đuốc sáng lòa khiến nàng có ảo giác rằng dường như đang không phải là ban ngày mà là đêm tối. Gã áo đen bị trói vào bức tường đá, ngẩng đầu nhìn nàng, ánh mắt lóe lên rồi tiếp tục gục đầu xuống, tóc tai rũ rượi, trên người thương tích chồng chéo ngang dọc, hiển nhiên là đã chịu đựng không ít hình phạt.
“Thiếu gia, thiếu gia!” Còn có một số người áo đen khác cũng bị bắt sống, trong đó có một người bị trói ở phía sau bên trái không ngừng kêu gọi gã áo đen. “Vị đại nhân này!”, hắn trông thấy Hàn Nhạn Thanh bước vào, “Ngươi thả thiếu gia của chúng ta ra, muốn bao nhiêu tiền thì lão gia của chúng ta sẽ trả.”
“Ưu Cách, không được cầu xin người Hán tha thứ”, gã áo đen lớn tiếng quát, khí huyết đảo lộn làm cho vết thương thêm đau đớn.
“Ái chà, tiểu huynh đệ.” Hàn Nhạn Thanh tựa như không nhìn thấy gã áo đen kia, đi thẳng tới trước mặt người thiếu niên tên là Ưu Cách, nhìn qua đánh giá, “Ngươi bị thương rất nặng!” Nàng quay lại ra lệnh. “Mang thuốc trị thương và băng gạc tới đây.”
Thuốc trị thương và băng gạc nhanh chóng được đưa lên. Thiếu niên kia nhìn Hàn Nhạn Thanh với vẻ rất cảnh giác nhưng Hàn Nhạn Thanh thật sự không động chân động tay gì, chỉ băng bó vết thương, động tác gọn gàng, thậm chí không làm cho hắn cảm thấy quá đau đớn.
“Vị đại nhân này”, Ưu Cách cẩn thận nhìn nàng, nhưng giọng điệu đã hơi mềm xuống, “Ngài cũng băng bó giúp cho thiếu gia nhà ta một chút đi. Thiếu gia bị đánh rất nhiều.”
“Ấy, không được cử động, mạch của ngươi khá kỳ lạ.” Hàn Nhạn Thanh bắt mạch cổ tay hắn, làm bộ lơ đãng hỏi, “Các ngươi là người Hung Nô à?”
“Không được nói lung tung”, gã áo đen phía trước quát lên, “Lão tứ là người Đại Uyển, các ngươi tin cũng được, không tin cũng được.”
“Người Đại Uyển à, cũng tốt.” Hàn Nhạn Thanh gật gù, “Hoàng đế chúng ta quyết định tấn công Hung Nô, mấy ngày nữa Xa kỵ tướng quân sẽ thống lĩnh đại quân tấn công Hữu Hiền vương của Hung Nô.”
Đôi môi đỏ mọng duyên dáng lạnh lùng bật ra những tin tức động trời lúc này còn mang tính cơ mật của quân Hán, Hàn Nhạn Thanh hướng ánh mắt về phía gã áo đen nhưng lại liếc xéo ngầm giám sát chặt chẽ Ưu Cách, quả nhiên thấy Ưu Cách “a” lên một tiếng, vẻ mặt hơi khác thường, mạch cổ tay nhảy lên.
“Còn phó tướng Lý đại nhân cầm quân tấn công Tả Hiền Vương…” Cảm giác rõ ràng mạch cổ tay Ưu Cách đập cuồng loạn, Hàn Nhạn Thanh buông ra, kinh ngạc thốt lên, “Các ngươi là người của Tả Hiền Vương.”
“Ngươi…” Gã áo đen rất kinh ngạc, sau liền hiểu ra, cười gằn, “Xem ra trong đám người Hán thật sự có không ít kẻ thông minh.”
“Còn ngươi lại không thông minh lắm.” Hàn Nhạn Thanh thản nhiên nhận lời tán thưởng, không muốn nhìn sắc mặt tái mét của đối phương, nói tiếp, “Nghe nói phi tử Đại Uyển được Tả Hiền vương sủng ái nhất đã sinh cho hắn một người con tên là Ngạc La Đa, chắc hẳn là ngươi. Ngươi là con của Tả Hiền vương, đến Ngũ Nguyên làm gì?”
Hàn Nhạn Thanh ra khỏi địa lao thì trời vẫn còn nắng khiến nàng cảm thấy dường như vừa bước ra một thế giới khác. Liễu Duệ đứng ở lối vào địa lao trông sang, thấy nàng ra thì đi tới rồi cả hai cùng rảo bước trên con đường chạy dọc quân doanh.
“Thương thế của huynh thế nào rồi?”
“Không vấn đề gì.” Liễu Duệ không dừng bước, “Nhạn Nhi, muội nói… có phải huynh làm sai hay không?”
“À…?” Hàn Nhạn Thanh không trả lời. Nàng biết trong chuyện xảy ra tại Nhất Tuyến Thiên ngày hôm qua có cái gì đó đã làm sư huynh xúc động, còn việc nàng cần làm chỉ là lắng nghe.
“Chúng ta quá tự phụ, cho là biết việc ba trăm năm trước, biết chuyện năm ngàn năm sau thì mọi sự không nằm ngoài tính toán của chúng ta. Huynh nghĩ với sự bố trí ở Nhất Tuyến Thiên thì không có gì thoát khỏi tính toán của mình, thế nhưng vẫn còn có người vì huynh mà chết. Trời cao đã dùng máu tươi của người ở bên cạnh để nhắc nhở huynh trước khi huynh khởi sự rằng, chúng ta thật ra cũng chỉ là người bình thường, không có gì để huênh hoang.”
“Sư huynh nghĩ như vậy…”, Hàn Nhạn Thanh cúi đầu, “cũng là đã xin lỗi đồng đội bị thương vì huynh rồi.” Nàng nói thêm, “Mặc dù muội không có mặt ở hiện trường nhưng cũng nghe kể rằng Phương Dụ Hàn bị thương là vì đỡ đao cho huynh. Hắn hy vọng huynh có thể dẫn các huynh đệ tốt của mình mở ra một chân trời mới. Huynh nghĩ như vậy không phải là xin lỗi hắn sao?”
“Hơn nữa, cho dù không có chúng ta thì cũng không tránh khỏi cuộc chiến tranh này. Thật ra thì trong thời loạn, không một ai có thể xác định được người nào sẽ bỏ mạng, người nào sẽ sống sót. Nếu quả thật xác định được như vậy thì tranh đấu để làm gì?”
“Nếu như huynh thật sự cảm thấy có lỗi với bọn họ, thì xin hãy quý trọng bọn họ, đối xử như vậy với họ trong các chiến dịch ngày sau đi.”
“Trên thế giới này, người phức tạp có thể phức tạp đến mức huynh không thể nào đoán nổi, người chất phác thì lại có thể chất phác đến mức huynh không thể nào tin.”
“Vì một niềm tin, họ có thể người trước ngã xuống người sau xông lên, trên mặt vẫn nở nụ cười không bao giờ tắt. Nếu lương tâm của huynh đã lên tiếng vậy thì cũng là đủ rồi.”
“Huynh tính xử trí Ngạc La Đa, con trai Tả Hiền vương thế nào?”
Liễu Duệ nhướng mày, “Không cần bày nhiều mưu kế phức tạp làm gì, chỉ cần phản ứng theo cách bình thường là được rồi. Có lẽ…” Mắt hắn hiện ra vẻ u ám, siết chặt tay nói, “Gã là quân cờ tốt nhất để huynh nắm giữ quân quyền.”
“Bắt được con trai của Tả Hiền Vương Hung Nô à?”, Vệ Thanh nhướng mày. Khi hắn thống lĩnh ba vạn quân Hán tiến vào quận Sóc Phương đã nghe Thái thú Sóc Phương báo cáo chuyện này, giờ hiếu kỳ hỏi lại.
“Đúng vậy!” Thái thú Sóc Phương khom lưng đáp, “Ngạc La Đa dẫn quân vào trong nội địa Ngũ Nguyên tập kích Giáo úy Liễu Duệ và bị Liễu Duệ bắt được. Liễu Duệ thẩm vấn biết thân phận của gã thì không dám tự ý giải quyết, bèn áp giải đến trước trướng chờ Tướng quân xử trí.”
“Lại là Liễu Duệ”, Vệ Thanh thầm nghĩ, cao giọng truyền, “Tuyên Liễu Duệ vào.”
Liễu Duệ vào trướng, bái lạy, “Mạt tướng Liễu Duệ tham kiến Trường Bình hầu, Xa kỵ tướng quân.”
“Liễu giáo úy miễn lễ.” Vệ Thanh vội đi xuống, tự tay đỡ Liễu Duệ dậy, “Mấy năm trước đã gặp nhau trong ngự uyển, Liễu giáo úy vẫn anh dũng như trước.”
“Tướng quân quá khen!” Liễu Duệ chắp tay làm lễ, “Liễu Duệ sao dám so sánh với Tướng quân.”
“Vệ Thanh nghe nói rằng Liễu giáo úy lấy lực lượng bảy người ít ỏi cầm cự với hơn trăm tên Hung Nô tới tập kích trong gần một canh giờ. Hành động như vậy còn không xứng hai chữ ‘Vũ dũng’ sao?” Vệ Thanh khen ngợi, “Huống chi yên ngựa mà Liễu giáo úy dâng hiến giúp ích không ít trong trận chiến Hán Hung. Lần này Liễu giáo úy có công lớn đó.”
Vẻ mặt Liễu Duệ càng thêm nhún nhường, “Mạt tướng không dám.” Hắn lảng sang chuyện khác, “Mấy hôm trước, mạt tướng bắt một gã người Hung Nô ở trong nội địa Ngũ Nguyên, nghe nói là con trai của Tả Hiền vương Hung Nô bèn áp giải đến đây. Kính xin Tướng quân chủ trì nên xử trí như thế nào.”
Vệ Thanh nghiêm mặt ra lệnh: “Dẫn người tới!”
Ngạc La Đa bị trói gô cổ dẫn vào trướng, sắc mặt tiều tụy nhưng vẫn ngang nhiên không quỳ, vẻ mặt ngang tàng. Hắn thấy Liễu Duệ đứng ở sau lưng Vệ Thanh thì không khỏi tức giận trừng mắt nhìn sang.
“Đủ rồi”, Vệ Thanh khoát tay nói: “Ngạc La Đa, tại sao ngươi tập kích Liễu giáo úy?”
Ngạc La Đa ngạo nghễ đáp: “Ta nghe nói hắn lợi hại nên muốn tới xem thử một chút mà thôi.” Không đợi Vệ Thanh lên tiếng đã lại nói tiếp: “Mặc dù ta thua nhưng người Hung Nô kính trọng anh hùng, hắn cũng được coi là hảo hán. Các ngươi muốn chém muốn giết thì cứ việc. Ngạc La Đa ta mà nhăn mặt chau mày thì không tính là hảo hán.”
“Đúng là lợn chết không sợ nước sôi”, Liễu Duệ nhủ thầm trong lòng.
“Ngươi không nói ta cũng biết.” Vệ Thanh đi đi lại lại mấy bước bên trong trướng, “Nhất định là mấy vương tử trong bộ lạc của Tả Hiền vương các ngươi không hòa hợp, vì vị trí người thừa kế mà ngươi sa vào vũng lầy.” Hắn cũng không nhìn đến ánh mắt ngạc nhiên của Ngạc La Đa, vén màn trướng lên, ra lệnh: “Cử người áp giải đến dưới trướng Hữu Bắc Bình tướng quân Lý Tức.”
Liễu Duệ ngấm ngầm đánh giá viên tướng trẻ tuổi, quả nhiên không hổ là danh tướng Vệ Thanh của Hán Vũ Đế, đoán trúng ngay điểm quan trọng. Hắn và Hàn Nhạn Thanh làm việc ở biên ải nhiều năm, tất nhiên biết rằng mặc dù Ngạc La Đa được Tả Hiền vương sủng ái nhưng do thân phận của mẫu thân nên không có đủ uy vọng ở trong bộ tộc. Quá nửa nguyên nhân Ngạc La Đa đột nhập vào đất Hán lần này là vì muốn lập chút công lao để ngăn chặn miệng lưỡi người trong bộ lạc.
“Liễu giáo úy!” Vệ Thanh mỉm cười quay đầu lại, nghĩ lại lời Hoàng thượng căn dặn hắn trước khi đi.
Trong cung Vị Ương, Lưu Triệt ngắm nghía thanh mạch đao do quận Ngũ Nguyên cống lên, vuốt ve lưỡi đao sáng lóa, hài lòng: “Liễu Duệ dâng lên một món đồ thật tốt, đáng tiếc là hơi muộn một chút. Nếu chế tạo xong trước khi cuộc chiến Mạc Nam bắt đầu thì trận đánh này nhất định thắng chắc.”
“Trọng Khanh, khanh đến Sóc Phương quan sát hắn lần nữa”, Lưu Triệt suy nghĩ một lát rồi bảo: “Nếu như hắn là một nhân vật thì đừng ngại dẫn quân đội của hắn ra chiến trường tôi luyện một phen, trẫm cũng dễ điều hắn trở về kinh.”
“Thương thế của ngươi đỡ chưa?”
“Đa tạ Tướng quân quan tâm, mạt tướng đã không còn đáng ngại”, Liễu Duệ khom người đáp.
“Như vậy đi, ngươi dẫn Khâu Trạch kỵ của ngươi cùng tham gia cuộc chiến Mạc Nam lần này.”
“Tuân lệnh!”
“Phương Dụ Hàn chết rồi.”
“Ồ”, Liễu Duệ lộ vẻ khổ sở, sau đó thì dần khôi phục lại như thường.
Hàn Nhạn Thanh cũng không vui vẻ gì. “Nói như vậy là huynh phải lập tức rời Sóc Phương ra chiến trường sao?” Nàng rót một chén rượu mới, di chuyển cờ hiệu trên sa bàn.
“Đúng vậy!” Liễu Duệ thản nhiên đáp, “Chuyện của Ngạc La Đa coi như là công thành thì rút lui. Vệ Thanh đúng thực không phải là một nhân vật đơn giản.” Vừa nói hắn vừa trầm tư.
“Tất nhiên rồi!” Hàn Nhạn Thanh cười tươi tỉnh trở lại, “Huynh cho rằng vị tướng quân kháng Hung nổi tiếng thời Hán Vũ Đế là đồ chơi sao.” Nàng chợt nhớ hồi trước đã từng đọc bài bình luận trên mạng về các danh tướng Trung Quốc cổ đại. Vệ Thanh đại khái xếp khoảng hạng mười, sau Hoắc Khứ Bệnh, phía dưới còn có thêm một câu: “Công tử nhà giàu coi tiền là rác như thời La Mã cổ đại.”
“Thật ra thì…” Liễu Duệ rót một chén rượu, “Tiến cống tất cả những thứ chúng ta có trong tay thì cuộc chiến tranh giằng co Hán Hung này có thể kết thúc sớm hơn, chúng ta cũng sẽ giảm bớt rất nhiều thương vong. Chúng ta có ích kỷ quá hay không?”
“Đúng vậy”, Hàn Nhạn Thanh nhếch miệng, “Sau đó chúng ta cũng bị chém đầu, biến mất khỏi thế giới này. Tóm lại, không thể hy sinh thân mình vì những thứ đó.”
“Sư huynh…” Hàn Nhạn Thanh cúi đầu, nhìn những đầu ngón tay chai sạn vì tập võ, không còn mềm mại như ban đầu của mình, “Huynh dẫn Thân Hổ đi theo cho nó học hỏi kinh nghiệm.”
“Ồ!” Liễu Duệ lấy làm kinh ngạc, “Còn muội thì sao?”
“Muội ư?” Hàn Nhạn Thanh cười một tiếng thê lương, giơ chén rượu lên, kính về hướng Trường An phương xa, khe khẽ hát, “Tây Bắc vọng Trường An, thương thay trung điệp nước mây ngàn?”[1]
[1] Lời trong bài hát Tây Bắc vọng Trường An.
Tháng Ba năm đó, một chiếc xe ngựa bình thường chạy về hướng cổng thành Trường An.
“Ừ, dừng xe trước cửa phường may Tạp Môn”, Hàn Nhạn Thanh vẫn nhắm mắt, ra lệnh.
Phu xe ở ngoài rèm đáp giọng trầm trầm, “suỵt” một tiếng để cho hai con ngựa tiếp tục chạy chầm chậm. Khi rời khỏi Trường An, nàng ngồi trên chiếc xe ngựa xa hoa được chế tạo đặc biệt, có rất nhiều bạn bè người thân đi cùng, còn có cả hai đứa bé nên rất vui vẻ, không cảm thấy nỗi buồn ly biệt. Bây giờ trở về chỉ có một thân một mình, tự dưng có tâm trạng e ngại khi gần về tới nhà, nghe âm thanh thành Trường An ồn ào náo nhiệt nhưng lại không dám vén rèm xe lên xem.
“Chưa già chớ kể hồi hương
Bởi chưng mang nỗi đoạn trường về theo.”[2]
[2] Trích trong bài thơ Bồ tát man – Kỳ 3 của Vi Trang.
Nàng nhớ tới chuyện trước khi rời khỏi quận Ngũ Nguyên đã đặt một phòng riêng trong tửu lầu Bạch Vân sang nhất quận để gặp Phi Hoằng. Phi Hoằng nói vị quận chúa Hoài Nam đó vừa phái người tới Ngũ Nguyên mật đàm với Dung ma ma, Mi Vũ cả một buổi tối, Hàn Nhạn Thanh cười mỉa mai, thấy mình quả thật may mắn, chọn một người bất kỳ trong thành Ngũ Nguyên, thế nào lại đúng là người trong mạng lưới ngầm của Hoài Nam vương.
Quận chúa Hoài Nam, chắc là Lưu Lăng, rất nổi danh đời sau, có một đoạn tình duyên mặn nồng với Lưu Triệt. Theo như Sử ký Tư Mã Thiên và những bộ phim đời sau thì Lưu Lăng cũng là một nhân vật lợi hại. Chẳng qua, Hàn Nhạn Thanh thầm nghĩ, theo như nàng điều tra từ hướng khác thì thấy dấu vết mưu phản của Hoài Nam vương ở thời đại này không rõ ràng như trên sử sách ghi lại, ít nhất nàng cũng chưa phát hiện thấy điều gì.
Đang suy nghĩ mông lung thì xe ngựa đã dừng lại trước phường may Tạp Môn, phu xe ở ngoài cửa nói, “Đến rồi!”
“Vậy hả?” Hàn Nhạn Thanh bừng tỉnh, thanh toán tiền xe, dừng trước cửa lớn phường may, ngẩng đầu quan sát cửa hiệu đầu tiên do chính tay mình lập nên ở thời đại này. Ngựa xe vẫn nườm nượp trước cửa. Dưới ánh mặt trời, biển hiệu phường may trải qua mấy năm mưa gió đã hơi cũ kỹ nhưng vẫn không mất đi khí thế. Chỉ có người đã chẳng phải người năm cũ nữa rồi.
Khi lên lầu, Hàn Nhạn Thanh bị mấy nha hoàn mới mà nàng không nhận ra cản lại, xem như khách hàng, dẫn tới phòng lớn.
“Mời Hạ cô nương ra đây!” Hàn Nhạn Thanh mỉm cười, thái độ tiếp khách của những nha hoàn này rất tốt. Xem ra Tang Hoằng Dương đã hết lòng giúp nàng thu xếp phường may.
“Hạ cô nương của chúng tôi bận việc nhà nên hiện giờ không có ở phường may.” Nha hoàn đó có khuôn mặt tròn tròn đứng bên trái nhún mình hành lễ cáo lỗi, sợ nàng mất hứng, nên nói tiếp: “Hay để tôi mời một vị sư phụ tới giới thiệu cho phu nhân?”
“Thế à?” Hàn Nhạn Thanh hơi kinh ngạc cười nói, “Vậy thì mời Thân đại nương ra đây gặp mặt đi.”
Lần này nha hoàn nhỏ không còn cáo lỗi, cúi chào rồi đi ra. Rất nhanh, có một phụ nữ mặc đồ xanh từ bên trong bước tới, vừa thấy Hàn Nhạn Thanh thì mắt sáng bừng, đó chính là Thân đại nương.
“Mẫu thân!” Hàn Nhạn Thanh nhõng nhẽo gọi, mắt bất giác đỏ lên, gục đầu vào lòng nghĩa mẫu.
“Nhạn Nhi, Nhạn Nhi!” Thân đại nương vỗ vỗ nhẹ vào lưng nàng, lẩm bẩm, “Trở về là tốt rồi, trở về là tốt rồi!”
“Mẫu thân, con để Tiểu Hổ Tử đi theo Liễu đại ca ra chiến trường đánh giặc rồi”, Hàn Nhạn Thanh khóc rấm rứt một hồi mới nhớ ra, kể chuyện Thân Hổ cho nghĩa mẫu.
“Ồ!” Thân đại nương lập tức lo lắng, “Tiểu Hổ Tử không việc gì chứ?”
“Sẽ không có chuyện gì đâu, mẫu thân!” Hàn Nhạn Thanh cười an ủi, “Công phu hiện giờ của Tiểu Hổ Tử đã giỏi lắm rồi, chính tay nó đã bắt được một vương tử Hung Nô lúc còn ở Ngũ Nguyên đấy.”
“Thật không?” Thân đại nương lắc đầu, “Mẫu thân cũng không cầu các con kiến công lập nghiệp, chỉ cần các con ai nấy bình an khỏe mạnh là tốt rồi. Đúng rồi, Mạch Nhi và Sơ Nhi đâu?” Bà chợt nhớ ra liền vội vàng hỏi.
“Ở chỗ sư phụ của con”, Hàn Nhạn Thanh đáp, “Sức khỏe Sơ Nhi không được tốt, còn phải nhờ sư phụ châm cứu điều dưỡng hơn nửa tháng nữa nên con để chúng ở lại đó.”
Mặt Nghĩa mẫu thoáng vẻ rầu rĩ, “Nếu không phải ban đầu con khó sinh thì Sơ Nhi cũng không bị bệnh như vậy. Trưởng công chúa…”, bà nói vẻ oán hận, “làm sao lại đụng vào Nhạn Nhi chứ?”
“Mẫu thân không cần phải nói nữa.” Đối với Hàn Nhạn Thanh, chỉ riêng việc người đụng phải mình là mẫu thân của A Kiều thì nàng đã không thể trách móc gì, huống chi ban đầu thị phi cũng chưa phải rõ ràng như vậy. Hơn nữa chuyện nàng sinh khó không chỉ riêng vì nguyên nhân đó. Chuyện đã xảy ra rồi, quan trọng lúc này không phải là truy cứu trách nhiệm mà là để cho Trần Sơ được vui vẻ.
“Đúng rồi, con nghe nói nhà Đông Trữ đã xảy ra chuyện, là chuyện gì vậy?”
“Chao ôi!” Thân đại nương thở dài, “Mẫu thân của con bé ngã bệnh. Những năm này Đông Trữ khiến cho Hạ gia thu nhập một ngày tới trăm tiền nhưng Hạ gia vẫn trách con bé ăn cây táo rào cây sung, không ngó ngàng gì đến mẫu thân. Đông Trữ đành phải ở nhà chăm sóc cho mẫu thân. Xem ra thì bà ấy cũng không qua được mùa xuân này. Nhạn Nhi, con có muốn đến thăm không?”
Đeo tấm mặt nạ mới lấy được lúc ở Đường Cổ Lạp Sơn, Hàn Nhạn Thanh kéo khăn che mặt, ngồi lên xe ngựa, ra lệnh đi về hướng Hạ phủ. Nàng biết đây là thành Trường An chứ không phải biên cương. Tuy không nhiều họ hàng thân thích năm xưa nhận ra được Trần A Kiều nhưng cũng không phải là hoàn toàn không có. Năm nàng mang thai, trong thân thể có hai linh hồn nên tự thấy hành vi cử chỉ vẫn có chỗ khác biệt vì thế khi mang mặt nạ mới dám đi lại khắp thành Trường An, gặp mặt Lưu Triệt cũng không quá sợ hãi. Lúc này nàng cũng không dám liều lĩnh, chưa kể những người khác, ít nhất trong thành Trường An đã có hai người có thể nhận ra nàng. Một người là Trưởng công chúa Quán Đào, người còn lại chính là Lưu Triệt.
Sau khi gia nhập phường may Tạp Môn, Hạ Đông Trữ nghe theo ý Hàn Nhạn Thanh mở một cửa hông tại viện Đan Tâm mà hai mẹ con nàng ta ở để khi ra vào không phải giáp mặt với những người khác trong Hạ phủ. Thật ra theo ý Hàn Nhạn Thanh thì tốt nhất là xây lên một bức tường triệt để ngăn cách viện Đan Tâm và Hạ phủ nhưng mẫu thân của Hạ Đông Trữ không chịu, nói như vậy sẽ làm xấu đi tình cảm giữa người một nhà.
Tình cảm, Hàn Nhạn Thanh cười khinh miệt, bọn họ đã không coi các người là người một nhà rồi, các người còn bận tâm về cái tình cảm đó làm gì chứ? Tới nơi, nàng bảo phu xe chờ ở bên cửa hông viện Đan Tâm còn mình thì nâng váy đi vào.
Cửa hàng mở hé một nửa không có ai trông chừng. Hàn Nhạn Thanh bước vào, trong lòng tràn ngập cảm giác kỳ quái, đi ngang vườn thì đột nhiên nghe thấy sâu trong rừng đào có tiếng người tranh cãi, trong đó có một giọng trong trẻo chính là Hạ Đông Trữ.
Nàng nghiêng mình đi tới, từ đằng xa đã thấy Hạ Đông Trữ mặc y phục màu lam dịu dàng tươi tắn đứng dưới một cây hoa đào và đối diện với nàng ta, Hàn Nhạn Thanh cau mày, lại là Liễu Ngôn Hạ.
“Đông Trữ, nàng phải tin tưởng ta, lúc đó thật sự ta bất đắc dĩ mà thôi.”
“Ngươi còn chưa nói đã vào đây bằng cách nào?”, Hạ Đông Trữ không hề bộc lộ chút tình cảm, hỏi trống không một câu.
“Năm xưa là cái tên ác ôn họ Hàn kia”, Liễu Ngôn Hạ nói bừa, “Hắn bức ép ta, ta vạn bất đắc dĩ mới phải nói cho hắn biết tin tức về nàng.”
Ở đằng xa, Hàn Nhạn Thanh nheo mắt, hay cho họ Liễu, đồ ăn cháo đá bát, bán đứng người khác như ngươi mà còn dám gắp lửa bỏ tay người.
“Đông Trữ, tuổi nàng cũng lớn rồi”, Liễu Ngôn Hạ tiếp tục huyên thuyên, dường như không nhìn thấy vẻ mặt thiếu kiên nhẫn của Hạ Đông Trữ, “Ta cũng không chê nàng bị tên họ Hàn giày xéo, cam tâm tình nguyện lấy nàng. Nàng cũng đừng lăn lộn ở phường may Tạp Môn đó nữa, nhà nhạc phụ có sản nghiệp lớn như thế mà lại để nàng và nhạc mẫu đói khát sao?”
Hàn Nhạn Thanh đột nhiên nghe thấy tin tức động trời như vậy thì quá kinh ngạc bước hụt một cái khiến Hạ Đông Trữ lập tức cảnh giác, “Ai?”
Hàn Nhạn Thanh bước ra ngoài. Đang tiết xuân nên hoa đào nở rộ, một cơn gió thổi qua khiến mấy cánh hoa rụng xuống vai nàng, khẽ lay động rồi trượt theo y phục xuống đất.
Hạ Đông Trữ liếc qua thì thấy một cô gái xa lạ đang đi tới. Cô gái này mặc chiếc váy dài có kiểu dáng bình thường nhưng cách cắt may lại là thượng phẩm để lộ ra vòng eo không hơn một chét tay[3]. Nàng nhìn qua cũng có thể nhận ra đây là tay nghề của phường may Tạp Môn, dùng chỉ thêu cùng màu thêu lên đủ các hình hoa mẫu đơn phức tạp. Bộ y phục này dành riêng cho một người con gái đang ở xa tận vùng biên cương mặc. Đôi mắt linh động của cô gái khiến Hạ Đông Trữ có một cảm giác quen thuộc tới kỳ lạ.
[3] Chét tay: Một lượng vừa nắm gọn trong hai lòng bàn tay.
“Tỷ tỷ?”, Hạ Đông Trữ hô lên thất thanh.
“Đông Trữ”, Hàn Nhạn Thanh vén cành đào, mỉm cười đi tới, “Nhiều năm không gặp muội”, nàng cố ý nhấn giọng, nhìn sâu vào mắt Hạ Đông Trữ, “vẫn khỏe chứ?”
“Muội vẫn khỏe.” Hạ Đông Trữ dường như nhớ lại điều gì, lạnh mặt quay sang Liễu Ngôn Hạ, “Ngươi có thể đi rồi.”
“Ngươi”, Liễu Ngôn Hạ tái mặt, “Ngươi đừng tưởng rằng mình là tiểu thư khuê các con nhà đại gia gì, nếu không phải cha ngươi trả tiền thuê ta tới thì ta sẽ không bao giờ thèm cái thứ hoa tàn liễu rủ như ngươi.”
Hạ Đông Trữ tức giận đến lạnh toát tay chân, nước mắt trào ra, “Cút.” Nàng ta chỉ về hướng cánh cửa trống không, lạnh lùng quát lên.
“Sao lúc đầu muội lại mù mắt coi trọng hắn như thế chứ?”, Hạ Đông Trữ dùng khăn lau nước mắt, nói vẻ oán hận.
“Cho nên tỷ nói con mắt chọn đàn ông của muội không ra gì mà”, Hàn Nhạn Thanh không muốn nàng ta thương tâm nên trêu đùa, tiếp đó nghiêm nghị hỏi, “Viện Đan Tâm lớn như thế này mà sao lại không có người canh cửa?”
Hạ Đông Trữ tỏ vẻ rầu rĩ, thấp giọng nói, “Chắc chắn là cha muội dã điều đi để cho Liễu Ngôn Hạ vào.” Nàng khổ sở: “Tốt xấu gì thì cũng là cha con với nhau, làm gì mà phải dùng tới cách này.”
“Bá mẫu!”, Hàn Nhạn Thanh bước vào phòng, thấy Hạ phu nhân nằm ở trên giường, sắc mặt tái nhợt, hốc mắt lõm sâu, thân thể quả thật suy nhược tới cực điểm. Trong hơn nửa năm nàng ở Trường An, Hạ phu nhân đối xử với nàng rất tốt nên nàng vội bước tới bắt mạch cho bà.
“Đại phu trong thành Trường An đều nói là ho lao, không cứu được nữa rồi”, Hạ Đông Trữ rầu rĩ, giọng nói ảm đạm dường như mất hết hy vọng.
“Ha ha, ai nói vậy”, Hàn Nhạn Thanh cười khẩy, “Đông Trữ quên sư phụ của tỷ là ai sao?”
“Tiêu tiên sinh!”, Hạ Đông Trữ sáng mắt lên. Nàng vốn rất kính trọng và ngưỡng mộ Tiêu Phương, cũng loáng thoáng biết y thuật của hắn như thần, “Tỷ tỷ có biện pháp trị bệnh sao?”
“Để tỷ thử xem.” Hàn Nhạn Thanh mặc dù có học dược lý, đọc qua một số sách trung y nổi danh đời sau nhưng rất ít thực hành nên không dám bảo đảm, trầm ngâm nói, “Muội lấy giấy bút ra đây.”
“Được rồi.” Hạ Đông Trữ quay đi lấy giấy bút tới. Hàn Nhạn Thanh cúi đầu suy nghĩ một chút rồi viết ra một đơn thuốc mang tính ôn hòa để ổn định lại thân thể.
“Nói đến bút mực…”, Hạ Đông Trữ vì có hy vọng mẫu thân sẽ bình phục nên tâm trạng cũng khá hơn, “nghe nói Tang tiên sinh tính toán mở một cửa hiệu chuyên bán giấy bút tên là Tức Lam các, chuẩn bị khai trương rồi!”
Năm đó, Hàn Nhạn Thanh, Tang Hoằng Dương và Liễu Duệ gặp lại nhau, cả ba người đều nhận thấy không thích ứng được với trúc giản, còn dùng tơ lụa thì cao quý nhưng lại không quen. Cho nên sau khi kinh doanh phường may và lầu Thanh Hoan có lợi nhuận thì họ quyết định nghiên cứu kỹ thuật làm giấy.
Tang Hoằng Dương biết rõ đạo lý khéo quá hóa hỏng. Nếu nói về kiếm cơm gạo thì phường may và lầu Thanh Hoan đã chiếm hai vị trí hàng đầu. Nếu bọn họ muốn nhúng tay vào tất cả mọi việc thì sẽ khiến mọi người chú ý. Trong ba người, ngoài Tang Hoằng Dương thì Liễu Duệ là xuyên không thân thể, còn thân phận của Hàn Nhạn Thanh lại không thể để cho người ngoài biết. Mặc dù người nào cũng bố trí che đậy nhưng nếu có người truy xét đến cùng thì cũng có thể điều tra ra. Vì thế ba người cùng nỗ lực giữ công nghệ làm giấy ở phạm vi nhỏ nhất, chỉ sử dụng trong đám nhân sĩ thân cận thôi. Trước mắt, ngoài ba người thì chỉ Triêu Thiên môn ở Đường Cổ Lạp Sơn và Hạ Đông Trữ là có loại đồ dùng hiếm lạ này. Thân đại nương không biết chữ nên không cần.
Theo ý Hạ Đông Trữ thì Tang Hoằng Dương lại đang tính toán dùng thân phận của mình đưa giấy mực ra kinh doanh như một nghề làm ăn mới. Hàn Nhạn Thanh ngồi trên xe ngựa, nhíu mày không giải thích được. Lẽ ra Tang Hoằng Dương không được tự tiện quyết định như vậy cho dù thời cuộc có biến hóa nhưng cũng nên thương lượng trước với nàng và Liễu Duệ mới phải.
Rời khỏi viện Đan Tâm, Hàn Nhạn Thanh thấy lầu Thanh Hoan ngay gần bèn chuyển hướng đi tới đó, hy vọng có thể gặp được Tang Hoằng Dương.
Lúc nàng đến lầu Thanh Hoan thì Tang Hoằng Dương không có mặt nhưng thư đồng Chiêu Tài của hắn đang ở đó, trông thấy Hàn Nhạn Thanh vội vàng tới nghênh đón, tỏ vẻ ngạc nhiên, “Tiểu thư, người đã về Trường An rồi?”
“Thì sao? Không hoan nghênh ta hả?”, Hàn Nhạn Thanh mỉm cười hỏi. Tang Hoằng Dương quản lý đầu bếp của lầu Thanh Hoan vô cùng tốt cho nên đến nay lầu Thanh Hoan là số một ở thành Trường An, hàng ngày quan lại quyền quý, dân chúng phố phường ra vào không ngớt.
Trên sàn diễn giữa hai lầu, người thuyết thư[4] kể chuyện Tam Quốc Diễn Nghĩa lúc này đang sôi trào nhiệt huyết diễn giải việc Gia Cát Lượng bố trí “Không thành kế”[5], Tư Mã Ý đa nghi lui binh, lầu trên lầu dưới rầm rầm ủng hộ.
[4] Thuyết thư: Thuyết thư là cách gọi khác của nghệ thuật Hát nói Trung Quốc, bao gồm các thể loại như Bình sách, Đàn từ, Bình thoại… Người thuyết thư là người biểu diễn các tiết mục Hát nói trước đám đông.
[5] “Không thành kế”là kế sách thứ tư trong nhóm kế sách “Nghi binh”. Khổng Minh cuối thời Tam quốc đã sử dụng kế này khi chống lại sự tấn công vào thành Bình Dương của đội quân Tư Mã Ý. Biết rằng mình đang ở thế yếu hơn, ông đã cố tình bố trí quang cảnh thành Bình Dương càng tiêu điều xơ xác để quân địch cảm thấy hoang mang, không dám tin vào tình cảnh quá sức bi đát đó của mình, còn sợ sa bẫy nên luống cuống đào thoát. Nhờ vậy mà Khổng Minh đã có đủ thời gian tập trung binh lực, trở lại với thế mạnh thường có của mình.
Đột nhiên người thuyết thư gõ thẻ gỗ một cái, chắp tay nói, muốn biết tiếp theo thế nào, xin nghe hồi sau sẽ rõ. Tấm màn che từ từ buông xuống, mấy thiếu nữ ôm đàn tỳ bà bước lên, hát bài Phiến vĩ khúc:
“Trường giang lớp lớp chảy về đông
Sóng dâng cuộn hết anh hùng
…”
“Hay!” Một giọng nữ thanh nhã từ phía sau truyền đến. Hàn Nhạn Thanh quay đầu nhìn lại, thấy một đôi nam nữ từ trên lầu đi xuống, nam thì nho nhã lịch sự, tuấn tú phong độ, nữ thì thanh tao quyến rũ, khí chất cao sang.
“Khúc hát thật thay. Trường Khanh[6] này, chàng có biết nữ ca sĩ chơi nhạc cụ gì không?”
[6] Trường Khanh: Tên tự của Tư Mã Tương Như.
“Nhạc cụ này gọi là đàn ‘ô đặc’ từ Tây Vực truyền đến, người Trung Nguyên thấy khó đọc mới gọi là đàn ‘tỳ bà’”, Hàn Nhạn Thanh nói, mắt nàng sáng lên, mơ hồ đoán được thân phận của hai người này, mỉm cười bước ra nghênh đón.
“Nghe ý tứ như vậy thì chắc hẳn phu nhân rất giỏi môn này?”, Trác Văn Quân hơi kinh ngạc, nhưng nhanh chóng thừa nhận thân mật hỏi.
“À, cũng hơi biết một chút”, Hàn Nhạn Thanh vã mồ hôi, đây chính là cách nói khiêm nhường mà người cổ đại thường xuyên sử dụng. Nàng từng học đàn tỳ bà nhưng chỉ học sơ qua, có thể gảy được một khúc nhưng đến chỗ cao siêu thì không bàn được. Hồi mới chơi, nàng khoác lác là người giỏi nhất cả nước, bây giờ thì e rằng một nữ ca kỹ tầm thường nhất trong lầu Thanh Hoan cũng hơn nàng.
“Nếu Tư Mã đại nhân và phu nhân có hứng thú, chúng ta hãy vào trong nói chuyện.” Nói gì thì nói Hàn Nhạn Thanh cũng không chịu để cho hai người đi, “Tôi sẽ bảo người ca cơ này đàn vài khúc mới cho hai người nghe.”
“Ồ!” Ngay cả Tư Mã Tương Như cũng cảm thấy có hứng thú. Hai vợ chồng họ rất giỏi âm nhạc, vừa mới tới kinh thành đã được nghe ở lầu Thanh Hoan này một khúc hát hay, theo lời Hàn Nhạn Thanh thì hẳn là còn không ít bài mới khác, “Phu nhân là chủ nhân lầu Thanh Hoan à?”
“Coi như là một nửa thôi.” Hàn Nhạn Thanh đưa tay duyên dáng nói, “Xin mời”, rồi đưa bọn họ vào phòng, quay lại bảo Chiêu Tài, “Hãy mời Mai cô nương đến đây.”
Một cô gái mặc y phục trắng như tuyết vén rèm bước vào, bàn tay nõn nà như ngọc, “Ký Giang ra mắt phu nhân, ra mắt Tư Mã đại nhân, Tư Mã phu nhân.”
Mai Ký Giang quỳ gối thi lễ, đàn tỳ bà che khuất nửa khuôn mặt, chỉ hé ra nửa bên trái được ánh mặt trời từ cửa sổ phía bắc mờ mờ chiếu vào, tuy không phải nghiêng thành tuyệt sắc nhưng cũng khá tươi tắn quyến rũ, không hề gợn chút phong trần.
“Ký Giang, tên rất hay”, Trác Văn Quân cười khanh khách nhìn sang, khen, “Quả thật là một cô nương thanh khiết như băng tuyết.”
“Đa tạ Tư Mã phu nhân khích lệ”, Mai Ký Giang dịu dàng trả lời, “Đây là nghệ danh phu nhân chọn cho tôi.”
“Ồ, có thể biểu diễn luôn không?” Tư Mã Tương Như mỉm cười hỏi. Hắn bỗng kinh ngạc thốt lên khi trông thấy nước trà mà người hầu dâng tới, là trà màu xanh biếc mát mắt, nở xòe trong nước như một đóa hoa. “Trà này chắc là có tên chứ?”
“Tiểu nữ bất tài nhưng cũng đã đặt tên. Tư mã đại nhân nổi tiếng thiên hạ, xin hãy giúp bình phẩm. Trà tên là ‘Minh Tiền Vũ Hậu’.”
“Minh Tiền Vũ Hậu”, hai vợ chồng nhấp thử một ngụm, liền cảm thấy như hoa thêu trên gấm, hương tan trong miệng, bèn khen, “Tên rất hay!”
“Đến phần Ký Giang biểu diễn rồi. Ký Giang”, Hàn Nhạn Thanh khẽ đưa mắt, “Tỷ hãy hát cho Tư Mã đại nhân và Tư mã phu nhân nghe bài Tây Châu khúc đi.”
“Được!” Mai Ký Giang ngồi ở chiếu dưới, chỉnh dây đàn rồi khoan thai đàn hát:
“Nhớ Mai ở Tây Châu,
Chặt gửi ra miền Bắc.
Cánh đơn nhụy đỏ hồng,
Hai nhành nâu một sắc
Tây Châu ở chốn nào?
Sông sâu cầu kết nối
Hoàng hôn chim khách kêu
Cành phong theo gió thổi.
Dưới cây là cổng trước
Vào trong đến vườn xanh
Mở cửa chàng không tới
Đành đi hái sen hồng
Hái sen ao phía Nam
Đài sen vượt quá đầu
Cúi đầu tách mấy hạt
Hạt sen ngọt nước Thu
Sen giấu trong tay áo
Tâm sen đỏ rực nồng
Nhớ chàng chàng chẳng đến
Ngẩng đầu hỏi chim Hồng
Chim bay khắp Tây Châu
Thấy chàng đến lầu xanh
Lầu cao lạc mất bóng
Ngày đậu hành lang trống
Hành lang mười hai khúc
Tay ai muốt như ngọc
Vén rèm cuốn trời cao
Biển trời màu xanh lục
Biẻn trời mộng phiêu diêu
Chàng sầu thiếp cũng sầu
Gió Nam hiểu lòng thiếp
Chuyển mộng đến Tây Châu.”
Bài Tây Châu khúc này vốn là một trong những bài dân ca nổi tiếng nhất Nam Triều, ca từ mộc mạc trong sáng, hoàn toàn tự nhiên. Giọng hát Mai Kỳ Giang cực kỳ êm ái, lại cố ý dùng phong cách đàn hát của Tô Châu như Hàn Nhạn Thanh bày dạy, thổ âm nước Ngô nhẹ nhàng ngân nga, lan tỏa khắp phòng như hơi thở vùng sông nước Giang Nam đang vỗ dồn.
Khúc hát đã hết mà Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân còn ngây ngất mãi. “Đây là lời bài hát Tây Châu khúc”, Hàn Nhạn Thanh không thay đổi sắc mặt, đưa cho hai người khúc phổ.
Có trí nhớ của A Kiều làm cơ sở, cộng thêm mấy năm tự khổ luyện, có thể nói Hàn Nhạn Thanh hôm nay đã có thể viết đủ bốn kiểu chữ Thượng Thanh Lệ Điền, nhưng điều hai vợ chồng chú ý tới trước tiên không phải là chữ của nàng, thậm chí không phải là lời bài hát Tây Châu khúc, mà là trang giấy mềm mại trắng nõn ghi chép bài hát.
“Đây là loại giấy mà chính miệng Hoàng thượng từng tán dương, gần đây truyền tụng huyên náo cả thành Trường An đó ư?” Tư Mã Tương như than lên, “Quả nhiên là tuyệt phẩm.”
Hàn Nhạn Thanh buồn bực, loại giấy giá cả bình thường của đời sau như thế này mà cũng được các người sùng bái vậy sao? Nhưng nàng lại có được một thông tin, chính miệng Hoàng thượng khen? Tang Hoằng Dương hiến tặng giấy bút cho Hán Vũ Đế sử dụng rồi sao? Nói đi cũng phải nói lại, nếu quả thật quyết định kinh doanh giấy mực thì lấy Lưu Triệt làm hình ảnh ngươi phát ngôn cũng không tệ, ít nhất là có sức hấp dẫn rất lớn.
“Tức Lam viên phải tới cuối tháng mới được khai trương, phu nhân lại có loại giấy này, vậy phu nhân và Tang Hoằng Dương đại nhân…?”, Tư Mã Tương Như trầm tư hỏi.
“Tang đại nhân là nghĩa huynh của tôi.”
“Nhạn Thanh muội trở về mà không thèm báo cho ta một tiếng nhé.” Tang Hoằng Dương mặc một bộ y phục màu xanh cười dài từ bên ngoài rèm rồi bước vào, không nhìn sang Mai Kỳ Giang đang đứng dậy hành lễ mà phất tay cho nàng ta lui, nói với Hàn Nhạn Thanh vẻ giận dỗi, “Muội còn biết trở về cơ đấy.”
“Hì”, Hàn Nhạn Thanh cười lúng túng, biết Tang Hoằng Dương đang oán trách nàng bỏ hắn một mình ở lại Trường An, vội vàng lảng sang chuyên khác, “Đây là Tư Mã Tương Như đại nhân và phu nhân, còn đây chính là Trị túc đô úy Tang Hoằng Dương đại nhân.”
Tang Hoằng Dương thu lại vẻ phóng túng, tôn kính cúi chào, “Nghe tiếng tăm Tư Mã đại nhân đã lâu, hôm nay mới được gặp, quả nhiên nghe danh không bằng gặp mặt. Về phần giấy của Tức Lam viên, nếu Tư Mã đại nhân thích thì đến ngày khai trương, ta sẽ cho người mang đến quý phủ.”
“Làm sao dám nhận”, Tư Mã Tương Như đáp lễ, “Vẫn nói là vô công bất thụ lộc, nhưng đến ngày khai trương Tức Lam viên, vợ chồng ta nhất định sẽ tới dự. Hôm nay huynh muội gặp lại nhau thì chắc chắn có nhiều chuyện muốn nói, phu thê chúng ta xin cáo từ trước.”
Dân Tây Hán cởi mở phóng khoáng không phân biệt nam nữ nặng nề như triều Tống đời sau, hơn nữa không phải ai cũng “biến thái” giống như cha của Hạ Đông Trữ cho nên Tang Hoằng Dương có thể đi thẳng vào phòng có khách nữ, còn Trác Văn Quân cũng có thể thoải mái từ biệt.
Hàn Nhạn Thanh cầm tay Trác Văn Quân mỉm cười nói, “Trác tỷ tỷ, khi nào rảnh rỗi thì đến chơi với muội, muội nhất định sẽ mở tiệc tiếp đãi.”
Trác Văn Quân theo Tư Mã Tương Như rời đi, Hàn Nhạn Thanh nhìn bóng lưng của nàng bỗng thấy trống trải. Đây là một trong những cô gái mà nàng ngưỡng mộ, có thể dũng cảm yêu, dũng cảm nói lời cự tuyệt. Còn Tư Mã Tương Như từng vì nàng ta viết bài Trường Môn phú. Hàn Nhạn Thanh hừ lạnh một tiếng, cũng chỉ là một người đàn ông phụ tình vô ơn bạc nghĩa.
“Đủ rồi!”, Tang Hoằng Dương cầm quạt cốc vào đầu của nàng, “Tỉnh lại đi.”
“Không được cốc đầu muội”, Hàn Nhạn Thanh tức giận quát lên. Hai người đã quen lúc nào cũng phải tính toán, thủ đoạn trong cuộc sống, giờ chỉ còn mỗi bạn bè liền trở lại tính trẻ con.
“Còn chưa…”, Tang Hoằng Dương có vẻ hơi phiền muộn, “Hôm đó ta đang viết chữ trong thư phòng thì Hoàng thượng cải trang dẫn Dương Đắc Ý và thị vệ đi vi hành, ngang qua Tang phủ nhất thời cao hứng rẽ vào thăm nhưng không cho người thông báo mà cứ thế đến thẳng thư phòng nên bắt được quả tang.”
Thì ra là vậy, Hàn Nhạn Thanh im lặng, “Thế huynh đối phó như thế nào?”
“Ta đổ cho A Duệ”, Tang Hoằng Dương đắc ý, “Dù sao thì hắn cũng đã có hai phát minh rồi, thêm một nữa thì cũng chẳng sao. Ta chỉ nói rằng trong khi chế tạo binh khí đã bất ngờ phát minh, vì thấy không quan trọng cho nên chỉ nói cho ta biết.”
“Phải thống nhất lời khai đấy”, nàng nhắc nhở.
“Ta biết”, Tang Hoằng Dương chỉ tay nói tiếp, “Y vừa thấy nó thì rất vui mừng, nói cái này còn quan trọng hơn cả binh khí, nhất định phải phát triển rộng ra, lập tức phất tay phê chuẩn cho ta lấy thân phận quan lại để kinh doanh.”
“Ừm”, Hàn Nhạn Thanh đang thầm suy tính, chỉ lơ đãng nói, “Thế thì tốt rồi.”
“Tốt cái gì chứ”, Tang Hoằng Dương chán nản, “Hoàng thượng nói một nửa thu nhập của Tức Lam viên phải nộp vào quốc khố.”
…
Hàn Nhạn Thanh choáng váng, “Như thế cũng vẫn còn tốt….” Nàng miễn cưỡng, “Ít nhất huynh còn được cái tư cách quan thương nghiệp.”
“Dẹp cái trò an ủi đi”, Tang Hoằng Dương gạt đi, “Không nói nữa, Mạch nhi và Sơ nhi đâu?”
“Ở chỗ sư phụ.”
“Năm Nguyên Sóc nguyên niên, Vệ Tử Phu sinh hạ Lưu Cứ, trên danh nghĩa là hoàng tử trưởng, được tấn phong hoàng hậu”, Tang Hoằng Dương nhìn nàng đầy ẩn ý, “Nhạn nhi, muội thấy rồi đó.”
Hàn Nhạn Thanh nhìn đi chỗ khác. Nàng cố không chú ý đến nỗi đau bị Tang Hoằng Dương khơi dậy làm chảy máu đầm đìa, nhất thời không biết nên căm hận hay giận dữ.