Tại nơi âm dương giao hợp, là nơi thần bí nhất trên thế gian.
Đối với cả Trần Cảnh và Hồng đại hiệp thì đây là lần đầu tiên họ ra ngoài biển. Lần đầu tiên bọn họ phát hiện ra rằng, ngoài bầu trời hư ảo, còn có cả biển khơi mênh mông lại cực kỳ chân thật như vậy nữa.
Bọn họ đang cưỡi lên con sóng để di chuyển theo yêu cầu của Quy Uyên. Y nói chỉ như vậy thì hai người mới có thể cảm nhận được hướng đi của linh mạch núi non ở trong biển. Chính vì thế mà ba người, một tôm mới không bay lượn để di chuyển.
Tại trong mắt người bình thường, biển cả mênh mông vô cùng thần bí, không thể đoán trước được, nhưng trong mắt người tu hành thì biển cả là nơi tụ tập của vô cùng vô tận linh khí. Tất cả linh khí ở đất liền đều theo các dòng sông mà đổ ra biển. Chính vì thế, linh khí trên biển bị pha tạp rất nhiều, rất không tinh khiết. Cho dù là sát khí hay các loại ngũ hành linh lực đều hòa vào nhau, cũng là nguyên nhân mà nhiều người không thích tu hành trong biển.
Ngay khi Quy Uyên đáp xuống mặt biển, y liền nhắm mắt lại, thân thể nhẹ như lông hồng trôi xuôi trheo dòng nước cuộn sóng. Chỉ là y đang ngược sóng nước mà đi.
Lúc này Trần Cảnh cũng đang tĩnh tâm cảm nhận linh lực. Llinh lực nơi đây nhiều vô cùng nhưng tính chất lại khác nhau, có dòng mộc mạc, có dòng thì cứng rắn, có dòng thì lại mềm dẻo. Điều này giống như khi ở trong ao đầm, có bùn, có cát, có nước và cả độc. Nơi này là hải vực, tuy không bị coi là hung địa hiểm cảnh, nhưng trong mắt người tu hành vẫn thua kém hơn những dãy núi có linh mạch tinh khiết mà thuẫn tĩnh trong đất liền.
Tu hành ngoài hải vực cũng là hút lấy linh lực bên ngoài nạp vào trong người như thế. Nhưng vì quanh năm tu hành mà thân thể những người tu hành trở nên tinh khiết, khi họ hấp thu dòng linh khí hỗn tạp nhất thời không thể luyện hóa được sẽ cảm thấy rất khó chịu, phải tìm cách bài trừ ra ngoài cơ thể. Như vậy mất rất nhiều thời gian luyện hóa, nên có rất nhiều người không thích tới hải vực.
Nếu như không bài trừ những thứ này thì vẫn có thể luyện hóa nhưng phải cần một đoạn thời gian dài để linh lực cực tình thuần tiếp nạp loại linh lực khác, mới trở thành pháp lực sử dụng.
Kỳ thật trong đất liền cũng như vậy, cho nên người tu hành thường chỉ chọn tu hành tại những vùng núi non có linh lực tinh thuần.
Truyền thuyết kể rằng những người tu hành đến mức cao thâm chỉ cần giơ tay nhấc chân là có thể khiến linh lực quanh người chuyển động, cả linh lực và sát khí ở xung quanh.
Trần Cảnh tu hành không yêu cầu quá cao đối với linh lực, bất kể loại nào cũng đều có thể dung nạp được. Quy Uyên thì giống như càng thêm tự tại, tất cả các loại linh lực dũng mãnh tiến vào mà không thấy y bài xuất ra. Nhan Lạc Nương thì chỉ hấp thu nguyệt hoa chi lực còn những loại khác thì bị ngăn ở bên ngoài.
- Trên mặt biển không dễ tìm kiếm, chúng ta đi xuống đáy biển thôi.
Quy Uyên nói, Trần Cảnh và Nhan Lạc Nương không có ý kiến gì.
Khi lặn xuống nước, Trần Cảnh mới phát hiện phi thiên độn địa đã tính là bản lĩnh giỏi, thì chuyện có thể hoạt động tự do dưới nước phải được coi là bản lĩnh hiếm có. Ít nhất Hồng đại hiệp đã cảm thấy áp lực, bởi vì thần niệm vô hình của nó đang đang bị thứ hữu hình là nước biển đè nén. Đây là một việc nó chưa bao giờ nghĩ đến.
Thân thể của Trần Cảnh là tượng thần, đã trải qua linh khí tẩy luyện nhiều năm, tuy rằng không đi tập trung vào pháp môn tế thân nhưng pháp bảo tầm thường cũng không thể làm hắn bị thương được. Chính vì thế mà hắn không sợ áp lực của nước biển. Chỉ có Hồng đại hiệp chưa từng ra biển qua, nên càng xuống sâu càng cảm thấy áp lực.
Chẳng qua có Trần Cảnh che chở, cộng với bản thân cũng là sinh linh trong nước, lại có thuật thủy độn nên chỉ cần có đủ thời gian là Hồng đại hiệp có thể thích nghi được với hoàn cảnh.
Tượng thầnTrần Cảnh dùng pháp nhãn nhìn vùng biển trước mặt. Quy Uyên thì đã hoàn toàn dung nhập vào nước biển và bóng tối. Trần Cảnh lại không thể phát hiện Quy Uyên ở bên cạnh, cũng không thể cảm thấy được y, mà chỉ cảm thấy y vốn là nước biển, là bọt nước trong bóng đêm.
Ngọn đèn xanh trên đỉnh đầu Nhan Lạc Nương hấp dẫn những yêu linh trong biển đi tới, nhưng bọn nó chỉ vây quanh từ xa mà không dám. Bọn nó có cảm giác cực kỳ linh mẫn, có thể cảm thấy sát khí nặng nề từ thanhNghiễm Hàn kiếm trên lưng nàng.
Bọn nó cũng cảm thấy sự nguy hiểm từ hai người còn lại. Quy Uyên giống như vực sâu thần bí, hấp dẫn nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm. Tượng thần ở trên lưng con tôm đỏ thẫm lại khiến bọn nó cảm thấy nặng nề. Như thể nhìn vào tượng đá, bọn nó có cảm giác tượng đá như trấn trong lòng chúng nó, khiến chúng nảy sinh suy nghĩ muốn quỳ xuống bái lạy. Chính vì thế mới khiến cho bọn nó không chỉ cảm thấy nguy hiểm, mà còn sợ hãi nữa.
Nhưng dù cho bọn nó có cổ động như thế nào thì rốt cuộc vẫn không có kẻ nào dám ra tay cướp đoạt. Ba người một tôm đi đến đâu, đám yêu linh đều nhanh chôóng tách ra để mở một con đường đến đó.
Tại nơi chỉ thấy bóng tối, không xác định được thời gian này, bỗng nhiên Quy Uyên mở miệng nói rằng:
- Nơi này có linh lực tụ tập, chắc có một linh mạch.
Trần Cảnh cũng cảm thấy điều này. Nơi đây là một dãy núi, chỉ có một điểm khác biệt duy nhất với những dãy núi trên đất liền là không hề có thực vật gì cả. Chỉ có một thứ gì đó như những bông hoa mọc lên, nhưng lại như thể là một loại động vật, khiến hắn không thể xác định được chính xác đó là động vật hay là thực vật nữa.
- Thật ra mỗi linh mạch trong trời đất này đều liên kết với nhau, như một mạng lưới. Mỗi linh mạch là một mắt lưới.
Quy Uyên giải thích. Lần đầu tiên Truyền Ưng nghe được kiểu so sánh như vậy.
Trần Cảnh rất ngạc nhiên. Hắn không tìm hiểu đại trận nhưng không xa lạ gì trận này. Vì đối với bất kỳ người tu hành nào cũng đều biết rằng đấy chính là thiên hạ đệ nhất kỳ trận. Hơn nữa nó còn được người trong thiên hạ ví von rằng “thế gian vô trận bất chu thiên, bố kỳ họa đồ ánh tinh đấu.”
Ý của câu nói này là trong thiên hạ này thì mọi trận pháp đều tạo ra dựa trên đại trận Chu Thiên Tinh Đấu, tuy có hơi phóng đại, nhưng cũng đã cho thấy được sự thần kỳ của trận pháp này.
Trần Cảnh cũng biết trận pháp này, nhưng sợ rằng trong thiên hạ không có nhiều người biết được đại trận này là do Thiên đế Yêu tộc sáng chế ra, và cũng chỉ có trong tay hắn mới phát ra uy lực như vậy. Mà một số trận pháp được cho rằng là đại trận Chu Thiên Tinh Đấu được truyền lưu trong thiên hạ sợ rằng chỉ là môt bộ phận của đại trận này.
- Chu Thiên Tinh Đẩu đại trận có ba trăm sáu mươi sáu trận cơ, theo thứ tự là bia thần do ba trăm sáu mươi lăm Yêu thần luyện hóa thành, còn ở trung tâm chính là sao Thái Dương trên đỉnh núi Bất Chu. Mà bia thần sông Kinh Hà chính là một trong số đó.
Khi nghe Quy Uyên nói đại trận Chu Thiên Tinh Đẩu có ba trăm sáu mươi sáu trận cơ, Trần Cảnh cũng đã dự đoán được. Chỉ là khi nghe Chu Uyên xác nhận vẫn cứ cảm thấy chấn động. Hắn thầm nghĩ: Không ngờ ta lại ở gần thần bí ngàn vạn năm trước đến vậy.
Quy Uyên lại nói tiếp:
- Trận pháp trong thiên hạ này hẳn là đều được bố trí dựa vào sông ngòi mà thành. Kết hợp với linh lực và địa thế để bày trận. Trong cuộc chiến giữa Xiển giáo và Tiệt giáo thì đại trận Cửu Khúc Hoàng Hà là dùng bia thần Hoàng Hà làm trận cơ mà thành.
Trần Cảnh cẩn thận lắng nghe, những thứ này tuy không phải liên quan đến việc tu hành nhưng lại giúp hắn hiểu rõ hơn lịch sử của trời đất. Từ đó, hắn càng thêm thấu hiểu thiên địa này. Hắn mới phát hiện ra rằng hóa ra trời đất vẫn luôn thay đổi, dù cho là những nhân vật kinh thiên động địa trước kia hay chính mình đều là lực lượng thúc đẩy trời đất biến hóa. Chỉ là bọn họ thôi động biến hóa kịch liệt, lại vẫn không thể thoát ra được mà bị trời đất này nghiền nát mà chết.
- Đúng thế, Bồng Lai cũng là một trận cơ của đại trận Chu Thiên Tinh Đấu. Hơn nữa nơi này còn là một chỗ động thiên phúc địa ở xen lẫn hai giới Âm Dươn. Ta nghĩ cung Quảng Hàn nhất định cũng có một tấm bia thần.
Quy Uyên trả lời.
- Có, bia kia tên Thái Âm.
Nhan Lạc Nương trả lời.
Trần Cảnh nghi ngờ hỏi:
- Chẳng lẽ bia thần không biến mất sao? Chẳng lẽ chúng đều tồn tại vĩnh hằng không bị hủy diệt hay sao?
Trần Cảnh biết rằng bia Kinh Hà trong thân thể mình đang nhanh chóng khôi hồi lại sau khi suýt bị phá nát, cho nên mới có câu hỏi đó. Hắn lại nghĩ: “Nếu năm xưa chỉ cần bị kiếm kia đâm sâu thêm một tí thì thần bia Kinh Hà có thể bị phá hỏng hay không?”
Quy Uyên lắc đầu nói:
- Ta cũng không biết rõ, có thể có hoặc cũng có thể không.
Trần Cảnh hỏi tiếp:
- Có lẽ không, là làm sao?
- Nghe nói đại trân Chu Thiên Tinh Đấu đã dung nhập vào trong trời đất. Năm đó, khi nó vừa hình thành thì đã thoát khỏi trói buộc của núi sông mà dung nhập vào trời đất. Bia này không còn là vật hữu hình nữa, mà đã trở thành dấu vết trong trời đất này. Chính vì thế mà Ngọc đế Hạo Thiên sau này mới dựa vào bia thần dung nhập vào trời đất này mà luyện hóa ra sắc phù thần linh, sắc phong cho chư thiên Tiên thần.
Quy Uyên chậm rãi nói tiếp:
- Nó đã trở thành một loại pháp tắc trong thiên địa, đã không thể bị phá hủy, nhưng chúng ta có thể sử dụng.
Trần cảnh nghe những cố sự này, trong lòng tưởng tượng về cuộc chiến trong quá khứ đến mức thừ người. Nghĩ thầm: Tuy bọn họ đã biến mất, nhưng bọn họ đã cải biến cả thế giới, khiến cho những người tu hành sau này đều sống dưới cái bóng của bọn họ.
Một lát sau, Trần Cảnh lại hỏi:
- Chúng ta làm sao tìm được Bồng Lai?
- Khi hai bia thần ở gần nhau, tự nhiên sẽ sinh ra cảm ứng, việc này còn phải nhờ Hà Bá gia rồi.
Quy Uyên trả lời.
Nghe thấy thế, Trần Cảnh bèn thử câu thông với bia thần Kinh Hà. Đột nhiên hắn cảm ứng được bia thần rung động kịch liệt, rồi từ cơ thể hắn phóng lên cao. Nó tỏa ra ánh sáng chói lóa, sáng ngời cả một mảnh biển tối tăm, rồi lao thẳng lên trên mặt biển. Uy áp tản ra khiến cho đám yêu linh ở xung quanh nháo nhào chạy trốn. Trần Cảnh theo sát phía sau, lòng mơ hồ cảm ứng được có một tấm bia khác cũng đang phát ra chấn động mãnh liệt.