Sau khi Cố Trường Hành bế quan, Lục Thanh Dã lại bắt đầu kế hoạch tu luyện của riêng mình. Nhưng lần này, trong kế hoạch ấy, nàng thêm vào việc học bốn nghệ tu tiên.
Chuẩn bị chu đáo xong, nàng đến tàng thư các của Tiêu Dao Phong. Trong tàng thư các, đủ loại sách và ngọc giản được cất giữ, trong đó tự nhiên cũng có ghi chép về đan, phù, khí, trận. Nàng dùng điểm tích lũy của mình để mượn đọc suốt nửa tháng. Khi xác định lý thuyết đã nắm vững, Lục Thanh Dã mới thu dọn đồ đạc, đến khu vực chuyên dùng để luyện bốn nghệ này.
Vì luyện đan và luyện khí cần có lò đan, lò khí; luyện phù và trận pháp lại cần phù chỉ, phù bút, trận thạch cùng nhiều loại vật liệu khác. May mắn thay, động phủ tứ nghệ đều được trang bị đầy đủ, còn có địa hỏa do tông môn cung cấp.
Phải biết rằng, hỏa trong giới tu tiên cũng phân cấp rõ ràng: thấp nhất là phàm hỏa, sau đó đến địa hỏa, linh hỏa, cuối cùng là dị hỏa. Phàm hỏa phổ biến nhất, nhưng khó mà luyện ra đan dược hay pháp khí tốt; địa hỏa là hỏa diễm được thiên địa sinh ra; linh hỏa thì chỉ có tu sĩ Kim Đan hậu mới có thể ngưng tụ theo linh căn của bản thân; còn dị hỏa – là cơ duyên, vạn năm khó gặp, tu sĩ sở hữu dị hỏa trong Thanh Huyền giới, đếm chưa hết ba ngón tay.
Lục Thanh Dã chưa đến Kim Đan, chưa mở ra linh hỏa, nên chỉ có thể mượn địa hỏa trong động phủ. Còn dược liệu luyện đan thì phải tự mình chuẩn bị. Ngoài ra, động phủ cũng cần dùng linh thạch hoặc điểm tích lũy của tông môn để đổi lấy quyền sử dụng. May thay, nàng trước đó đã hoàn thành không ít nhiệm vụ, điểm tích lũy đủ để ở đây một thời gian dài.
Nàng chọn luyện đan đầu tiên, phần lớn là vì khi còn ở phàm giới từng học qua y dược, hiểu biết chút ít về thảo dược, cảm thấy bản thân có thể có thiên phú ở lĩnh vực này.
Trong động phủ có trận pháp bảo hộ, tránh cho việc luyện đan nổ lò gây ảnh hưởng đến người khác. Cạnh lò đan còn đặt sẵn một cuốn thủ sách, ghi rõ cách vận dụng lò đan và mở địa hỏa.
Ban đầu Lục Thanh Dã còn tưởng việc mở – tắt địa hỏa là do trận pháp đường hoặc luyện khí đường thiết lập, nào ngờ trong sách lại ghi là của Cơ Quan Đường phụ trách. Lúc này nàng mới nhớ, trong tông môn quả thật có một phong chuyên nghiên cứu chế tạo cơ quan khôi lỗi, loại đạo cụ này khác với pháp khí ở chỗ phần lớn không cần linh lực để vận hành, thường dùng trong những hoàn cảnh đặc biệt. So với luyện khí, khôi lỗi cơ quan dễ nhập môn nhưng hạn chế cũng nhiều hơn.
Theo chỉ dẫn, nàng dùng linh lực ôn dưỡng lò đan, chờ nhiệt độ thích hợp rồi mở chốt địa hỏa. Lập tức, luồng hơi nóng hừng hực phả vào mặt, Lục Thanh Dã phải lui lại mấy bước mới cảm thấy dễ thở. Ngọn lửa đỏ rực thiêu đốt dưới đáy lò, nhanh chóng khiến thân lò biến sắc, linh lực trong địa hỏa vận chuyển khiến lò bắt đầu xoay tròn, tốc độ càng lúc càng nhanh, phát ra tiếng “ong” nhẹ.
Thấy vậy, nàng liền lấy ra dược liệu chuẩn bị sẵn, lần lượt cho vào. Hai tay kết ấn, dẫn ra lôi – mộc linh lực khống chế hỏa thế.
“Bùm!”
Ngay khi linh lực chạm vào lò, một tiếng nổ vang lên, khói đen từ khe lò cuộn ra, mùi khét lan khắp động phủ. Lục Thanh Dã hơi nhíu mày, biết ngay mẻ đan đầu tiên, phế rồi.
Thất bại nhưng nàng không nản chí. Bốn nghệ tu tiên vốn không dễ: ngoài yêu cầu về độ chuẩn xác trong điều khiển linh lực, còn cần thần thức mạnh, cùng thiên tư và nghị lực bền bỉ. Không thế, người tinh thông tứ nghệ sao lại quý hiếm đến vậy?
Thu dọn tàn dược, nàng lại bắt đầu mẻ thứ hai.
“Bùm!”
“Bùm!”
“Bùm!”
Hết lần này đến lần khác, khói đen mù mịt, Lục Thanh Dã mặt mũi lem luốc, thậm chí vài lọn tóc cũng bị cháy sém. Nàng thở dài, niệm pháp quyết, dùng Thuật Thanh Tẩy quét qua, trong chốc lát động phủ lại sạch sẽ như cũ.
Lần này nàng không vội, mà ngồi tĩnh tâm tổng kết kinh nghiệm. Sách ngọc giản dạy chỉ là lý thuyết, như phần điều hỏa, chỉ nói “tùy theo đặc tính dược liệu mà tăng giảm hỏa lực”, nhưng không nói rõ là bao nhiêu. Có loại thảo dược cứng rắn khó luyện, phải kéo dài thời gian; có loại thì khi vừa tan chảy đã phải lập tức cho dược thứ hai vào phối hợp. Những tinh tế đó, chỉ có thể dựa vào thử nghiệm và kinh nghiệm tích lũy.
Hơn nữa, nàng nhận ra hai loại linh lực trong cơ thể mình cũng phải phối hợp tùy lúc. Khi luyện dược liệu ôn hòa, dùng mộc linh lực giúp tinh luyện dược tính, khiến dược lực dịu hơn; còn với dược liệu khó luyện, dùng lôi linh lực lại hữu hiệu hơn – nó bạo liệt, mạnh mẽ, giúp ép ra tạp chất nhanh chóng, để lại tinh hoa thuần khiết. Cuối cùng, hai loại linh lực lại hòa vào nhau để kết đan.
Qua nhiều lần thử nghiệm, Lục Thanh Dã dần nhận ra vấn đề lớn nhất của bản thân nằm ở thần hồn. Linh lực nàng mạnh, nhưng thân thể và hồn lực chưa cân bằng, khiến việc điều khiển tinh vi trong quá trình luyện đan khó hơn người thường. Chỉ cần hồn lực dao động quá mức, linh lực trong lò liền rối loạn kết quả là nổ lò.
Nhận rõ nhược điểm, nàng điều tức lại rồi bắt đầu lần luyện mới.
Tiếng “ong ong” vang lên, linh lực quanh lò dao động, Lục Thanh Dã toàn tâm khống hỏa, từng tia địa hỏa bốc lên đều ổn định mà mạnh mẽ. Quá trình luyện tiến đến giai đoạn cuối, thành bại trong gang tấc!
Nàng không dám sơ suất, hỏa thế lúc ôn hòa, lúc bốc mạnh, lại dần dịu đi. Ở khâu dung đan, phải giữ lửa ấm đều, rồi nhân lúc nhiệt khí chưa tán, dùng linh lực còn sót lại để dưỡng đan.
“Phụp!”
Một tiếng vang giòn, lò đan ổn định rơi xuống đất, khe hở truyền ra hương thơm thanh khiết. Lục Thanh Dã ánh mắt sáng rực đó là mùi của Dưỡng Linh Đan!
Thành rồi!
Nàng hồi hộp mở nắp lò, hương thơm càng nồng, thần thức quét qua, thấy trong lò có mấy viên đan dược nhỏ cỡ móng tay, tròn trịa tỏa linh quang nhàn nhạt.
Lục Thanh Dã khẽ đặt tay lên thành lò, linh lực chấn nhẹ, mấy viên đan liền bật ra. Nàng nhanh tay hứng lấy, cho vào bình ngọc, miệng khẽ cong lên, nụ cười đầu tiên trong bao ngày khói lửa luyện đan.