Liên Tú Nhân ngồi bên song cửa, ngắm ráng hồng từ từ phủ lên ngọn cây, trải khắp đình viện. Sắc vàng nhàn nhạt chiếu rọi tay áo đẫm sương đêm của nàng, không mang nổi chút hơi ấm.
“Phu nhân, đường chủ về rồi.”
Liên Tú Nhân bỗng bật dậy, làm ngã chiếc đôn gấm. Chợt thấy mình thất thố, nàng vội định thần, chầm chậm bước ra nghênh đón. Mùi rượu nồng xộc vào mũi, Từ Huy Dạ tựa thành cửa, cười như không cười. Liên Tú Nhân hít sâu một hơi, bao nhiêu năm qua chưa thấy y phóng túng như vậy, nhãn thần bi ai khiến nàng không dám nhìn thẳng. Nàng cuối đầu, chợt nghe thanh âm giận dữ của y:
“Tại sao tránh né ta?”
Từ Huy Dạ siết cằm Liên Tú Nhân, ép nàng ngẩng đầu nhìn mình. Làn da trắng nõn, thần sắc diễm lệ, Từ Huy Dạ ngẩn ngơ nhìn, chợt cúi đầu hôn nghiến gương mặt nàng, giống như lữ khách khát nước trên sa mạc. Đám nha hoàn lui hết, đóng cửa lại. Quấn quít kịch liệt, nhưng bất luận hắn nhiệt tình thế nào, nàng vẫn nhìn ra nỗi đau thê lương xuất phát từ phế phủ hắn, bao trùm lấy nàng. Đỉnh điểm cao trào, hắn vô ý gọi tên Khoái Tuyết. Nàng như bị ném xuống từ tầng mây, tim bị giày xéo thành ngàn vạn mảnh.
Từ Huy Dạ cởi áo khoác ngoài, giữa chừng đột nhiên quay đầu, bắt gặp đôi mắt đen thăm thẳm của Liên Tú Nhân đang nhìn mình không hề chớp mắt. Hắn vỗ về gò má hồng vựng của nàng, ngón tay lạnh lẽo, khiến nàng run rẩy. Nàng như nghẹt thở, nước mắt rơi trên tay hắn. Huy Dạ nói:
“Xin lỗi.”
Rồi hắn xoay người bỏ đi, không chút lưu luyến.
Liên Tú Nhân vùi đầu vào tấm chăn. Hai mươi năm bên nhau, hắn ngày càng ôn nhu, hạnh phúc tựa hồ đến rất gần. Nhưng Triệu Phù Phong vừa về, gợi lại câu chuyện xưa vốn đã phủ bụi mờ, nàng mới biết: thì ra chân tình hắn đối với tiểu thư thủy chung không hề quên. Thiếu niên cuồng si đắm chìm trong rượu năm đó không ngờ vẫn tồn tại sau lớp mặt nạ ôn hòa.
Từ đó, hắn không đụng đến chéo áo nàng, hàng đêm đều gọi ca kĩ. Mỗi ngày dùng cơm, hắn đối với nàng khách khí vạn phần. Nàng cảm giác cự ly hai thước ba phân giống như cách trở thiên sơn vạn thủy. Hắn gắp thức ăn đầy cả chén nàng, nàng không đụng đến. Nàng chợt quay đầu nhìn cột trụ đỏ, nhớ lại câu chúc dán trên đó trong ngày hôn lễ, bất giác ngậm cười.
Từ Huy Dạ phá vỡ tĩnh lặng, hỏi:
“Có chuyện gì vui à?”
Liên Tú Nhân buộc lại búi tóc, cười đáp:
“Thiếp nghĩ, chúng ta thực sự là tương kính như tân.”
Nụ cười của nàng bật ra, kiều diễm khó diễn tả, khiến ánh trăng bên ngoài song cửa cũng buồn bả phai màu.
Từ Cẩm Chi ngồi bên cạnh bị sặc miếng nấm rơm, đang cố sức ho ra.
Từ Huy Dạ trầm mặc rất lâu, chậm rãi thốt:
“Những gì ra nói trước mộ nàng ấy khi xưa, nàng vẫn còn nhớ.”
Liên Tú Nhân đang xoa lưng cho con trai thì dừng lại, từng chữ như tiếng sấm nổ bên tai nàng:
“Mất nàng ấy, ta chẳng qua là một kẻ không còn trái tim. Nàng nguyện làm thê tử ta, được thôi. Nhưng trừ vinh hoa phú quý, nàng sẽ không có gì cả.”
Song nàng vốn không chịu tin, luôn cho rằng tình ý có thể lay động, dù tâm can sắt đá cũng có thể khiến hắn quay đầu.
Từ Cẩm Chi nhìn thấy vẻ mặt u buồn của mẫu thân, hơi hé môi, nhưng không nói gì cả.
Đêm đó Từ Huy Dạ say khướt, gọi cô nương Thủy Hạnh đứng đầu Xuân Vũ Lâu đến. Liên Tú Nhân bắt một cái ghế, ngồi giữa viện. Từ Cẩm Chi không có mặt, hạ nhân càng không dám bước vào cục diện kì quặc, tránh càng xa càng tốt. Ngoài trời sao thưa thớt, trong phòng tối đen, Liên Tú Nhân lặng lẽ nghe tiếng cười đùa ngả ngớn từ trong phòng vọng ra, đủ loại thanh âm khó nghe, chẳng ngờ mặt không đổi sắc.
Hơn nửa đêm, Thủy Hạnh xách theo hài thêu rón rén đi ra, khép hờ cửa. Vừa quay đầu, đúng lúc chạm phải ánh mắt Liên Tú Nhân. Thủy Hạnh cảm giác mục quang băng tuyết như mãng xà đang trườn bò trên hai gò mà mình, bò xuống tấm thân lỏa thể từ đầu đến chân, bất giác run bắn sợ hãi. Nàng ta vội khấu đầu thỉnh an Liên Tú Nhân. Liên Tú Nhân từ tốn hỏi:
“Tại sao không thắp đèn … tại sao vội vàng bỏ đi?”
“Đường chủ hành sự”, Thủy Hạnh khiếp hãi ngước nhìn Liên Tú Nhân, “rất ghét thắp đèn, cũng không cho chúng tôi ở lại qua đêm. Lần trước A Xuyên tỉ tỉ len lén đốt nến, kết quả …”
Nàng ta rùng mình một cái, nhớ đến hôm đó A Xuyên đang xướng một khúc ca, đột nhiên lỗ tai rỉ máu, giãy dụa một hồi thì chết, trước khi chết còn khổ sở nói một câu:
“Tiểu Hạnh tử, không được phạm … phạm đại kị không cho thắp đèn của đường chủ.”
Thủy Hạnh run rẩy, cảm giác lông tóc toàn thân dựng đứng, rất lâu mới trấn an: Đã là kiêng kị, vạn lần không dám nhắc tới, lắp bắp trả lời:
“Cũng … cũng không có gì.”
Liên Tú Nhân trầm mặc một lúc, nói:
“Ngươi đi đi.”
Thủy Hạnh gấp đến không nhìn rõ đường, đi nhầm vào vườn hoa, nghe Liên Tú Nhân gọi:
“Quay lại.”
Nàng ta vội vàng quay lại, run run đứng trước mặt Liên Tú Nhân. Liên Tú Nhân thấy nàng ta rất sợ hãi, cười cười, hòa nhã hỏi:
“Vừa rồi đường chủ dạy ngươi viết chữ, viết gì vậy?”
“Không biết đọc, đường chủ muốn tôi viết, tôi theo đó mà viết thôi.”, thấy sắc mặt Liên Tú Nhân trầm xuống, Thủy Hạnh vội giải thích, “Chúng tôi học đàn hát đều nhờ sư phụ truyền khẩu, vốn không biết chữ.”
Liên Tú Nhân chau mày, suy nghĩ vì sao hắn kiên nhẫn dạy người này viết chữ? Khi định thần, nàng thấy Thủy Hạnh vẫn còn đứng đó, tức giận nhưng không bộc lộ. Liên Tú Nhân phẩy tay, Thủy Hạnh như được đại xá, rời khỏi hậu đường, nhặt vội y phục, không ngờ đã ướt đẫm.
Liên Tú Nhân bước đi nhẹ nhàng, tiến vào phòng ngủ của Từ Huy Dạ, vén rèm nhìn, ánh trăng chiếu lên gương mặt tuấn tú nhợt nhạt của hắn, quả nhiên đã ngủ say. Nàng biết hắn ngủ luôn cảnh giác, nay mệt mỏi như thế, tất nhiên bị tiểu yêu tinh đó hại, trong lòng tức giận. Nàng trở gót đến bàn viết xem qua, mỗi trang đều là tên của yêu tinh đó, nghiêng nghiên lệch lệc, trông không vừa mắt. Thấy dưới nghiên mực còn một tờ giấy, nàng rút ra xem, tức thì như bị sét đánh trúng, huyết sắc trên môi hay gương mặt đều biến mất.
“Song điệp tú la quần, đông trì yến, sơ tương kiến.
Chu phấn bất thâm quân, nhà hoa đạm đạm xuân.
Tế khán chư xử hảo, nhân nhân đạo, liễu yêu thân.
Tạc nhật loạn sơn hôn, lai thù y thượng vân.”
Đoạn trên bài từ dùng bút pháp phi dương phóng túng; đến đoạn dưới thì nét bút ôn nhu, đẹp đẽ u nhã. Liên Tú Nhân ngẩn người hồi lâu, gom hết những tờ giấy đến bên ngọn nến, lập tức tập giấy bén lửa. Nàng bất chợt rút tay, vò tập giấy, dập tắt tàn lửa, cất vào tay áo, đi thẳng ra ngoài.
Hôm sau Từ Huy Dạ thức dậy, đầu đau buốt, không nhớ đêm qua đã làm gì, thoang thoảng trong không khí mùi da thịt cháy xém.
Tháng ba xuân nồng, mặt trời vừa xuống núi, hương hoa ngan ngát giữa đêm thanh tĩnh. Phương Giai Mộc dọn cơm tối ra giữa sân. Y rót một chung thiêu tửu màu phớt hồng trong suốt của Hiếu Nhân phường, đẩy tới trước mặt Triệu Phù Phong, cảm thán:
“A Phong, thực sự phải đi à?”
Triệu Phù Phong đón chung rượu, một hơi uống cạn, lồng ngực phát sinh nhiệt khí:
“Tất nhiên phải đi. Ta rời khỏi hai mươi năm hơn, cũng nên về Nam Hải gặp sư phụ rồi.”
Phương Giai Mộc nhìn Triệu Phù Phong, so với một tháng trước y còn gầy hơn. Gặp phải chuyện không thể xoa dịu này, Phương Giai Mộc chỉ có thể rót cho y chung rượu nữa:
“Được, đợi đám A Nhàn trở về, mọi người cùng đến Nam Hải thăm ngươi.”
Giọng Liên Thanh Nguyễn cất lên:
“Phù Phong ca, huynh nói đi là đi, không nói với ai một tiếng, khiến người ta buồn lòng thật.”
Hắn không qua cửa, mà băng qua hàng rào, phóng đến bàn ăn, ai oán ca cẩm.
“Nếu đêm nay đệ không tới, ta cũng phải tìm đệ. Thanh Nguyễn, phiền đệ chuyển lời đến Tú Nhân, ta không đi một mình”, Triệu Phù Phong cười nhẹ, “Ta muốn dẫn Khoái Tuyết về Nam Hải.”
Liên Thanh Nguyễn há hốc mồm, ngẩn ra một hồi, lắp bắp thốt:
“Phù Phong ca, huynh, huynh bảo là …”
Phương Giai Mộc lắc đầu:
“A Phong, nàng ấy đã được chôn cất đàng hoàng, ngươi tùy tiện đào lên, rất không thỏa đáng.”
Triệu Phù Phong trầm giọng:
“Ta tay không bỏ đi, để nàng cô đơn lẻ loi nằm dưới đất lạnh … chỉ cần nghĩ thôi, ta đã thấy không thể chịu đựng.”
Liên Thanh Nguyễn ngơ ngác nói:
“Nghe nói độc hàn nha sau khi phát tác, thân thể đông cứng như nằm trong hàn băng ngàn năm, vĩnh viễn không thối rửa. Đệ … kì thực cũng muốn gặp mặt tiểu thư lần nữa.”
Mọi người lặng lẽ không lên tiếng, nỗi thương cảm như ánh trăng chầm chậm phủ ngập sân, chung quanh yên tĩnh chỉ còn nghe tiếng côn trùng ra rả.
Một thiếu niên đẹp đẽ bước qua ánh trăng tiến vào, y phục xanh nhạt như màu cây non trên núi. Phương Giai Mộc cười hỏi:
“Sao Cẩm Chi cũng đến vậy? Hôm nay Kiếm Hoa Xã thật náo nhiệt. Ngồi nào, ăn cơm chưa?”
Từ Cẩm Chi gật gù, thấy trên bàn cũng có một chén canh nấm, nhất thời nhớ tới tình cảnh trò chuyện lạnh lùng của phụ mẫu ban nãy, buồn bả không nói nên lời.
Hào khí ngưng tụ, Triệu Phù Phong đột nhiên rút đao, sống đao miết trên vỏ đao, phát ra tiếng kim loại:
“Thiên vô nhai hề địa vô biên, ngã tâm sầu hề diệc phục nhiên.
Nhân sinh thúc hốt hề như bạch câu chi quá khích, nhiên bất đắc hoan nhạc hề đương ngã chi thịnh niên.
Ý nghĩa tuy buồn, nhưng hàm chứa hào khí phong cuồng. Phương Giai Mộc phấn chấn, ứng đối cùng y. Bốn người trong đêm, uống rượu dưới trăng, uống đến khi trăng mờ sao tỏ.
Liên Thanh Nguyễn tửu lực không đủ, sớm gục ngã ngay bàn. Phương Giai Mộc lúc say thì không nói năng, cúi đầu bước đi loạng choạng trong rừng, khiến bầy chim kinh động bay lên. Ngồi lại chỉ còn Triệu Phù Phong và Từ Cẩm Chi, sắc mặt thiếu niên trắng đến trong suốt, nhìn chằm chằm Triệu Phù Phong, đột nhiên thốt lên câu hỏi:
“Thúc rời Giang Nam tìm để dã già, những năm tháng đẹp đẽ nhất trong đời lãng phí trên bước đường, quay về rồi, chỉ là kính hoa thủy nguyệt, thúc có hối hận không?”
“Nghe mẹ cháu kể à? Thúc …”, Triệu Phù Phong trầm ngâm, “Thúc bình sinh không có chí hướng lớn, chỉ thích thì đi, sao gọi là lãng phí? Khoái Tuyết bị giam cầm trong thân thể không thể khóc không thể cười, như khúc gỗ, nếu có thể giải tỏa được giam cầm, nàng ắt sẽ thành bạn đồng hành cùng thúc ngao du thiên hạ. Thúc yêu nàng ấy, nên không hối hận.”
Từ Cẩm Chi lạnh nhạt nói:
“Nhưng người đã rời xa trần thế, thúc làm gì cũng phí công rồi.”
Triệu Phù Phong chậm rãi đáp:
“Tình yêu của thúc, mục đích của thúc, phí bao nhiêu công sức, đều không can hệ đến người khác.”
Từ Cẩm Chi mỉm cười thê lương:
“Là vậy sao? Thúc cho rằng thế gian thực có loại tình ý trọn đời không đổi sao? Tất cả đều như cát, càng muốn nắm chặt, càng trống rỗng. Cháu thấy thúc như vậy, rất buồn cười.”
Triệu Phù Phong vịn vai Từ Cẩm Chi:
“Tuổi còn nhỏ, đã nhìn lòng người u ám thế này. Con trai của Huy Dạ và Tú Nhân, không nên như vậy.”
Từ Cẩm Chi bắt gặp ánh mắt thương tiếc của y, thân hình run khẽ, tức thì nhảy dựng, lớn tiếng:
“Không liên quan đến phụ mẫu cháu, thúc không được nói đến họ.”
Triệu Phù Phong nhìn vào mắt thiếu niên, âm u như bầu trời trước cơn bão lớn, áp lực buồn bả, nên y không nói gì nữa.
Nắng sớm xuyên qua cành cây tán lá rậm rạp, chiếu xuống chỗ Từ Huy Dạ ngồi, in bóng lên vạt áo trắng của hắn. Từ Cẩm Chi bước vào phòng, đứng sau lưng hắn gọi khẽ một tiếng phụ thân.
Từ Huy Dạ quay đầu:
“Cẩm Chi, đêm qua con không về nhà. Đi uống rượu hả?”
Từ Cẩm Chi biểu hiện vẻ mặt sẵn sàng chịu trách phạt:
“Phụ thân muốn mắng con, cứ thẳng thắn. Con đến chỗ Phương thúc uống rượu.”
“Triệu Phù Phong cũng ở đó? Ta không muốn con và hắn thân cận quá. Lần trước phái tử sĩ đến đoạt để dã già của hắn, không ngờ thành trò đùa trẻ con.”
“Con luôn áy náy, nên muốn góp chút sức lực. Chỉ là không ngờ võ công hắn cao như thế, bốn tử sĩ Tây đường cũng không chịu nổi một đòn.”, mắt hắn lấp loáng khiếp nhân, “Phụ thân sợ gì?”
Từ Huy Dạ thâm trầm:
“Cẩm Chi, đây là thái độ con nói chuyện với phụ thân à?”
“Tất nhiên không phải. Nhưng phụ thân đã đối xử mẫu thân như thế nào?”, Từ Cẩm Chi khẽ cười, “Phụ thân từng đồng ý với con, cả nhà mỗi ngày phải hòa khí, giờ nuốt lời rồi.”
Từ Huy Dạ không giận mà nói:
“Quyền thế, thanh danh, hiền thê, ái tử … người đời mong muốn, ta đều đạt được. Nay không còn dã tâm bừng bừng thời niên thiếu, cảm thấy mệt mỏi, đáng tiếc lúc bắt đầu ta không chịu bỏ qua.”
Mắt Từ Cẩm Chi đỏ ửng, cố khắc chế một hồi, mới miễn cưỡng đáp:
“Con đến có chuyện muốn bẩm báo phụ thân. Triệu Phù Phong muốn khai quật mộ của Giang di, đưa về Nam Hải. Mẫu thân nổi giận, đã dẫn theo Phong vân thập tam kiếm đến ngăn cản.”
Sắc mặt Từ Huy Dạ trắng bệch, không kịp thay quần áo, phóng vội qua cửa. Từ Cẩm Chi cúi đầu, nước mắt rơi trên mặt bàn tức thì tan biến.
Từ sau khi Triệu Phù Phong lên ba mươi, động thủ đánh nhau với người ta đã trở thành một chuyện tẻ nhạt, có thể nói là một màn biểu diễn đơn độc. Lúc này đây, đối mặt với đám kiếm sĩ áo đen, y đột nhiên có cảm giác được tham gia chiến trận:
“Tú Nhân, bất luận nàng cản trở thế nào, ta nhất định phải đưa Khoái Tuyết về Nam Hải.”
Liên Tú Nhân tức giận, nghiêm giọng:
“Lúc đầu ngươi bỏ tiểu thư mà đi, hại nàng ấy ôm hối tiếc lâm chung, còn mặt mũi lớn tiếng ở đây không thẹn, cái gì mà đưa tiểu thư về Nam Hải chứ? Ta quyết không để ngươi tổn hại hài cốt tiểu thư, càng không để ngươi mang nàng rời khỏi quê hương.”
Nàng giơ ngang đoản kiếm, tay áo tung bay phần phật, nói tiếp:
“Nếu ngươi cố chấp muốn quật mồ bốc cốt tại mộ viên Liên thị, phải bước qua thi thể ta.”
Triệu Phù Phong quả thật không muốn xung đột với Liên Tú Nhân, nhưng mang hài cốt hồi hương, trăm năm y sẽ được cùng Khoái Tuyết chôn chung, tâm nguyện dâng trào, không thể nhẫn nại. Y quả quyết nói:
“Ta và Khoái Tuyết tuy chưa bái đường thành thân, nhưng đã có hôn ước. Ta đưa thê tử hồi hương, ai cũng không thể ngăn cản.”
Y vừa chuyển bước, kiếm trận Phong vân thập tam kiếm đã bày bố. Mười ba thanh kiếm bạt xuất, tề chỉnh vô cùng, khi triển khai trận thì linh hoạt, mạnh mẽ, nghiêm mật, lợi hại … kình lực đan thành lưới, vây Triệu Phù Phong vào giữa.
Triệu Phù Phong xuất đao chậm rãi, chiêu thức bình thường, trông vụng về như võ sư mãi võ trên phố. Phong vân thập tam kiếm lại không dễ hành động, mũi kiếm như bị buộc vật nặng, càng múa càng chậm, tiết tấu ngày càng trùng với Triệu Phù Phong. Trong khoảnh khắc mọi người nhất trí xuất chiêu, Triệu Phù Phong hơi nghiêng người, mũi đao chênh chếch nâng cao, vẽ thành một vòng chu vi sáu thước. Phong vân thập tam kiếm cảm thấy đao thế mãnh liệt của đối thủ đột nhiên biến mất, mười ba thanh kiếm đâm vào hư không, đâm vào làn nước mềm mại. Sức mạnh của kiếm trận liền bị hóa giải. Chiêu thức “tạ gia trì đường” của Triệu Phù Phong, yếu quyết lĩnh ngộ chính là trở thành dòng nước, tựa loài tảo thân mềm trong hồ nương theo dòng nước, trống trải mà thanh tân.
Triệu Phù Phong muốn nhấc bổng cơ thể, xuyên qua kiếm trận tiến tới bên mộ, song y chợt nhớ đến thiếu nữ năm đó đã cáu gắt nhận xét:
“Nhất vi độ của Thần Đao Môn chẳng phải rất bất ngờ sao? Nhảy lên như thế, dọa ta hết hồn.”
Y khẽ cười, có chút hoảng hốt. Trong chớp mắt đó, Liên Tú Nhân đột nhiên xuất kiếm, đâm tới Triệu Phù Phong không chút phòng bị. “Tạ gia trì đường” hóa giải lực đạo đối phương, trước tiên hóa giải lực đạo bản thân, đoản kiếm không bị ngăn trở đâm vào bả vai Triệu Phù Phong, dòng máu nóng hổi phun trào.
Liên Tú Nhân rút kiếm về, thần sắc kiên quyết:
“Ta kiên quyết không cho ngươi quấy nhiễu tiểu thư, không phải nói đùa đâu.”
Triệu Phù Phong thản nhiên thốt:
“Ta muốn đưa nàng đi, cũng không phải nói đùa.”
Liên Thanh Nguyễn từ đầu vẫn ngồi bên mộ bia, buồn rầu không lên tiếng, bất ngờ nhảy dựng lên, xé vạt áo buộc vết thương giúp Triệu Phù Phong, miệng mấp máy:
“A tỉ, đứng giữa tỉ và Phù Phong ca, đệ chỉ có thể rủ tay, nhưng kiếm này của tỉ đâm thật nhẫn tâm. Tiểu thư mất rồi, thực sự hoàn toàn trách Phù Phong ca sao? Phù Phong ca trở về như lời hứa, tỉ dựa vào gì cản trở y?”
Liên Tú Nhân cười lạnh:
“Vậy thì thế nào? Đã nhập thổ vi an, ngươi bốc đồng như vậy, cố chứng tỏ mối tình si cảm động thiên địa của ngươi hả? Xin khuyên ngươi về thì về, đừng mượn nỗi đau của Liên thị tô điểm thêm nỗi đau của ngươi.”
Lời lẽ thập phần hà khắc, Liên Thanh Nguyễn kinh ngạc nhìn sửng Liên Tú Nhân, chợt hiểu: Phù Phong ca về tới, quan hệ a tỉ và đường chủ căng thẳng đến mọi người trong đường đều biết, lẽ nào năm xưa a tỉ và Phù Phong ca quả thực …
“Ta đã hứa đưa Khoái Tuyết về Nam Hải, nhất định phải làm được, không kể nàng ấy còn sống hay đã khuất. Người ngoài nghĩ thế nào, ta chẳng để tâm.”
Một thanh âm kinh ngạc vang lên:
“Ôi, đường chủ, người …”
Mọi người quay đầu nhìn, thấy Từ Huy Dạ mặc nguyên bộ thường phục đứng dưới tán cây, mái tóc đen tung bay tán loạn. Phong vân thập tam kiếm thấy vị đường chủ ngày thường dáng vẻ tuyệt không luộm thuộm, khí độ trầm tĩnh, giờ đây y phục không chỉnh tề, tóc tai rối tung, thực khiến người ta kinh hãi.
Triệu Phù Phong nắm chặt chuôi đao, thầm nghĩ phu thê hai người liên thủ, y chắc chắn bị thương, chỉ nắm được ba phần thắng. Luận những bằng hữu đồng sinh đồng tử này, hai mươi năm gặp lại, một người bụng đầy oán hận, một người thái độ như người qua đường, thế sự thay đổi, thực khó mà ngờ.
Liên Tú Nhân trông thấy Từ Huy Dạ, hít thở thật sâu, gắt giọng thốt:
Nàng và hắn chung tay khai sáng Kiếm Hoa Đường, kinh nghiệm thăng trầm vô số, lúc khó khăn nhất, cũng chưa từng thấy ánh mắt y tuyệt vọng ảm đạm như thế.
Từ Huy Dạ hướng vào mộ bia Giang Khoái Tuyết, lặng lẽ xuất thần, dường như không nghe lời nàng nói. Liên Tú Nhân đợi một lúc, cơn giận dữ không thể kiềm nén, huơ tay vung kiếm, kiếm quang như bạch hồng quán nhật, chặt đứt một cành cây to như cánh tay trẻ con. Đây là chiêu “nghênh phong trảm” của Liên gia kiếm, Triệu Phù Phong nhận ra, không khỏi cười khổ.
Nhìn cành cây rớt xuống đất, trước mắt chợt thấy một màu đỏ.
“Làm sao tính tình giống trẻ con vậy?”, hắn bước tới bên cạnh Liên Tú Nhân, tay phải ôm lấy nàng, tay trái tiếp lưỡi kiếm, dịu dàng an ủi, “A Tú, sự tình năm xưa, kì thực không thể trách Phù Phong, nàng hà tất nổi giận với y?”
Vừa nghe lời đó, Triệu Phù Phong tất nhiên vui mừng. Phong vân thập tam kiếm xưa nay nhìn sắc mặt Từ Huy Dạ hành sự, kiếm trong tay cũng buông thỏng. Liên Tú Nhân không đáp, xoa nhẹ vết thương của hắn, thấp giọng hỏi:
“Tại sao không tránh?”
“Để nàng phát tiết hết lửa giận.”, Từ Huy Dạ buông Liên Tú Nhân ra, đoản kiếm hắn kẹp giữa ngon tay bị bẻ gãy vụn, làm người trông mà lóa mắt, hắn cười khẽ, chậm rãi thốt, “A Tú, nếu ta chết, nàng muốn mang hài cốt ta đi, bị người khác cản trở, nàng phải làm sao?”
“Sao mà so sánh được? Hừ, huynh nói gì chứ, huynh …”, Liên Tú Nhân không ngờ hắn đứng về phía Triệu Phù Phong, ẩn ý trong câu từ đã đem phẫn nộ hóa thành bi thương.
Từ Huy Dạ nhìn vào mắt nàng:
“A Tú, đừng ngăn cản Phù Phong.”
Ánh mắt y chuyên tâm mà dịu dàng, khiến tâm trạng nàng khẩn trương. Nàng chịu không nổi, quay đầu đi, nhìn thấy một con bạch điểu đập cánh bay lên ngọn cây, lao vút vào bầu trời xanh. Liên Tú Nhân chán nản, nghĩ: Chim tại mộ phần Liên gia cũng vậy, không chịu chống đối ngươi.
Xẻng thứ nhất ấn xuống, Triệu Phù Phong căng thẳng toàn thân. Xuyên qua lớp đất, đến lớp quách đá, xuyên tiếp cỗ quan tài gỗ, chính là cô nương của y. Dù nàng đã hóa thành hàn băng, y vẫn không từ bỏ.
Liên Thanh Nguyễn và Phong vân thập tam kiếm đều xiết chặt xẻng, Liên Tú Nhân đứng ở xa xa, toàn thân run rẩy. Từ Huy Dạ thấy nàng chịu đựng khổ sở, nhẹ nhàng nắm tay nàng. Nàng nghẹn ngào:
“Huy Dạ, ta chín tuổi được chủ nhân chọn trúng, đã thề phải bảo vệ tiểu thư trọn đời, nay … nay huynh bảo ta mở to mắt nhìn tiểu thư …”
Từ Huy Dạ ôm chặt nàng:
“Ừm, ta biết.”
Liên Tú Nhân tựa vào ngực hắn, cảm giác đời này chưa bao giờ gần gũi với hắn như thế.
Tiếng khai quật đột nhiên dừng lại, kế đó Liên Thanh Nguyễn điên cuồng gọi:
“A tỉ mau tới đây.”
Từ Huy Dạ dắt tay Liên Tú Nhân, cùng đi tới mộ thất. Quan tài đã được mở, bên trong trống rỗng. Liên Thanh Nguyễn đứng sát bên quan tài, từng câu từng chữ thốt lên:
“Tiểu thư không có bên trong, a tỉ, tiểu thư không ở đây.”
Liên Tú Nhân trừng mắt muốn rách cả mi:
“Có kẻ trộm mộ … ta phải bẻ gãy xương cốt tên trộm đó.”
“Không phải bị trộm mộ. Đồ bồi táng vẫn còn, chỉ là không thấy Khoái Tuyết”, hai mắt Triệu Phù Phong sáng bừng, “Có lẽ Long Sát báo thù, có lẽ Khoái Tuyết …”
Hy vọng mong manh đó, y không dám nói thành lời. Liên Thanh Nguyễn lại khinh xuất nói ra, khiến trái tim đã hóa tro tàn của y nhóm lại ngọn lửa: