Lữ Tứ Nương chợt xuất hiện khiến Dận Trinh kinh hãi. Liễu Ân gầm lớn, tung quyền đấm hờ vào mặt Lữ Tứ Nương, rồi đột nhiên giở chân đá ra một cước, suýt nữa cây bảo kiếm trong tay nàng đã bị y đá bay, nàng vội vàng bỏ Dận Trinh, lộn người qua liên tục đến hai chiêu, Liễu Ân xoay người lách ra phía sau Lữ Tứ Nương, lại tung cước lên đá vào lưng nàng, Liễu Ân đã dùng cả Phục Hổ quyền với Liên hoàn thoái, hung hiểm cực kỳ. Lữ Tứ Nương nghe phía sau có tiếng gió, chân điểm một cái, người vọt lên không; Liễu Ân đột nhiên thấy mất bóng địch, người lao về phía trước hai bước, Lữ Tứ Nương tay trái chụp vào sà ngang, tay phải vung lên, hai mũi trủy thủ sáng loáng bay về phía Dận Trinh và Liễu Ân!
Trong khoảnh khắc điện chớp lửa sẹt, Dận Trinh mới giật mình, đến khi Liễu Ân chặn Lữ Tứ Nương, y mới hơi vững bụng, vung tay điểm vào Hôn huyệt của Đường Hiểu Lan, nào ngờ Lữ Tứ Nương đột nhiên phóng trủy thủ đến, Dận Trinh lộn xuống đất, cây trủy thủ lướt qua đầu của y, khi lộn người đứng dậy thì đã rút kiếm trong tay.
Liễu Ân vung tay kẹp được cây trủy thủ, vận Kim cương chỉ ngực bẻ gãy làm đôi. Dận Trinh kêu: “Bảo Quốc thiền sư, giết Đường Hiểu Lan trước!” vì Đường Hiểu Lan có chiếu thư của tiên đế, Dận Trinh không biết lai lịch của chàng, y cực kỳ nghi ngại, trái lại khi nguy cấp vẫn không quên giết chết chàng. Liễu Ân phóng người tới, Lữ Tứ Nương đột nhiên từ trên không bay xuống, Liễu Ân chưa tới thì nàng đã xách Đường Hiểu Lan dậy, lại phóng lên, lúc này bọn thị vệ bên ngoài đã chạy tới cứu giá, Lữ Tứ Nương vung kiếm chém gông xiềng trên tay Đường Hiểu Lan, hỏi: “Có bị thương không?” Đường Hiểu Lan nói: “Không!” té ra Liễu Ân thấy chiếu thư của Khang Hy viết rõ bảo Dận Trinh phải lo lắng cho chàng, trước khi được Dận Trinh cho phép, y không dám lạm dụng hình phạt. Lữ Tứ Nương biết chàng không bị thương mới yên lòng, nói: “Được, chúng ta xông ra ngoài!” rồi phóng người lên, cây bảo kiếm quét tròn, đánh vỡ ngói lưu ly, mái ngói thủng một lỗ lớn, có hai tên thị vệ võ công cao cường phóng lên chụp nàng, Lữ Tứ Nương co người, tay trái nắm Đường Hiểu Lan ném ra ngoài, tay phải đâm mũi kiếm xuống, hai tên thị vệ vừa chạm gần tới chân nàng, đã bị nàng chém bị thương rơi xuống!
Liễu Ân võ công cực kỳ cao cường, thấy thế cũng không khỏi thầm lo. Dận Trinh cả giận lại quát: “Mau bắt con tiện tì lại cho trẫm!”. Lúc nãy Liễu Ân vừa mới đánh mấy chiêu với Lữ Tứ Nương, thấy kiếm pháp của nàng tựa như càng cao hơn trước, lúc này y không có cây thiền trượng, nếu đánh tay không với nàng chỉ e chẳng được lợi gì. Nếu cùng bọn thị vệ vây đánh nàng, lại mất thân phận sư huynh. Bởi vậy nghe Dận Trinh ra lệnh, bọn thị vệ vội vàng đuổi ra, chỉ có Liễu Ân vẫn đứng yên, bẩm với Dận Trinh rằng: “Chúa công, chỉ e bọn chúng còn có dư đảng, để tôi bảo vệ cho chúa công”. Dận Trinh nói: “Được, có ngươi ở đây cũng tốt”. Trong lòng rất không vui.
Lữ Tứ Nương rất giỏi khinh công, Đường Hiểu Lan cũng cao cường hơn bọn thị vệ bình thường, chỉ trong khoảnh khắc, họ đã vượt qua mấy tòa điện. Đổng Cự Xuyên và Cam Thiên Long từ hai bên đánh tới, hai người này võ công đương nhiên cao hơn bọn thị vệ. Lữ Tứ Nương phóng trủy thủ tới, Cam Thiên Long múa trường kiếm gạt một thanh trủy thủ bay xuống, nhắm đúng hướng bay của mũi trủy thủ thứ hai, lách người sang trái, nào ngờ Lữ Tứ Nương đã sớm dự liệu, khi phát ám khí đã ngầm vận thủ pháp, ném mũi trủy thủ thứ nhất bay thẳng tới, còn mũi trủy thủ thứ hai khi bay đến gần địch thì đột nhiên lệch sang trái, mũi trủy thủ bay vù một tiếng lướt qua vai Cam Thiên Long, vạch áo trên vai của y, Cam Thiên Long cả kinh không dám đuổi theo. Đổng Cự Xuyên ném ra ba mũi thấu khống linh, hai mũi bị Lữ Tứ Nương đánh rơi, mũi thứ ba lướt qua vai Đường Hiểu Lan, khiến Đường Hiểu Lan cũng kinh hãi.
Hai người giao phong bằng ám khí, thế là đà chạy chậm lại, thị vệ trong cung từ bốn mặt bay ra, Lữ Tứ Nương múa kiếm dẫn đường, dắt Đường Hiểu Lan chạy tới chỗ kín đáo, lúc này cả hai đã vào ngự hoa viên ở hậu cung, vừa mớt lướt qua một hòn non bộ, đột nhiên một toán thị vệ xông ra, người ở phía trước trông rất lanh lẹ, Đường Hiểu Lan vừa nhìn thì nhận ra người đó là Hầu Tam Biến. Chợt thấy Hầu Tam Biến phóng ra một mũi hưởng tiễn, Đường Hiểu Lan thất kinh, thầm nhủ: “Hầu Tam Biến là bằng hữu của Châu Thanh, sao lại không nương tay với mình như thế?” mũi hưởng tiễn lướt qua đầu Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương phóng người lên, chạy về nơi mũi hưởng tiễn rơi xuống, Đường Hiểu Lan giật mình, chạy sát theo Lữ Tứ Nương, Hầu Tam Biến chạy vọt ra phía trước đuổi theo, liên tục phóng ra mấy mũi hưởng tiễn, có lúc bay về phía bên trái, có lúc bắn về bên phải, Lữ Tứ Nương cứ chạy về phía trước theo mũi hưởng tiễn, tự như mũi hưởng tiễn này chỉ đường cho nàng, lúc này bọn vệ sĩ đã lọt ở phía sau, còn nàng chạy vào khu cây cối um tùm, chẳng có ai cản trở!
Hưởng tiễn vừa hát, Lữ Tứ Nương chợt ngừng bước, cười nói: “Lãnh Thiền quả nhiên có cách hay!” trong bụi hoa chợt có một người phóng ra, nắm lấy Đường Hiểu Lan, nói: “Ngươi cũng đến!” Đường Hiểu Lan nhìn lại, thì ra đó là một nhà sư, chàng chưng hửng, chợt nhận ra rằng đây chính là Chúc Gia Thụ, người đã từng giao thủ với mình trong cung ngày trước. Lãnh Thiền kéo một cái, sử dụng tuyệt chiêu Cầm Nã thủ, xương tỳ bà của Đường Hiểu Lan bị ba ngón tay ông ta bóp vào, chàng nhúch nhích chẳng được. Lữ Tứ Nương vội nói: “Là người của chúng ta”. Lãnh Thiền ngạc nhiên nói: “Y chẳng phải là thị vệ trong cung sao?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Y là con trai của Hải Đường!” Lãnh Thiền rùng mình, vội vàng buông ra, dắt hai người Đường Lữ vào một cái hang. Trong bóng tối, Đường Hiểu Lan chỉ thấy hai mắt ông ta sáng ngời, cứ nhìn chằm chằm mình. Lữ Tứ Nương nói: “Hiểu Lan, ông ta là bằng hữu của bá mẫu”. Đường Hiểu Lan xốn xang trong lòng, nước mắt tuôn trào. Lãnh Thiền nói: “Ngươi có gặp mẹ của ngươi không?” Đường Hiểu Lan nói: “Đã gặp!” Lãnh Thiền nói: “Ngươi dắt ta vào lãnh cung tìm bà ấy!” Đường Hiểu Lan nghẹn ngào nói: “Ông không cần tìm nữa! Mẹ tôi đã chết từ lâu!”
Lãnh Thiền ngẩng người, chợt thấy lạnh mình, ông ta đã đợi hơn ba mươi năm, đã làm hòa thượng mà vẫn chưa quên tình yêu, không ngờ đến nay ý trung nhân đã chết.
Lãnh Thiền nghe thế, chẳng nói nửa lời. Lữ Tứ Nương nói: “Việc chúng ta đã xong, hãy ra ngoài đi thôi”. Lãnh Thiền đau đớn vô cùng, hỏi Đường Hiểu Lan: “Chết lúc nào?” Đường Hiểu Lan nói: “Chết trong đêm ông vào cung”. Lãnh Thiền mặt xám mét, chợt bên ngoài cái hang có một bóng người lướt vào, Hầu Tam Biến bước vào, cười nói: “May mà bọn thị vệ của Dận Trinh vẫn chưa quen đường lối trong cung, nếu không các người chẳng chạy thoát”. Chợt thấy Lãnh Thiền có vẻ khác lạ, y mới hỏi: “Chúc đại ca, làm sao thế?” Lãnh Thiền nói: “Hải Đường đã chết!” Hầu Tam Biến nói: “Hải Đường đã chết? Chả trách nào lãnh cung đã bị đóng cửa, tôi tưởng bà ta đã bị đưa đến nơi nào khác”. Lãnh Thiền chợt nói: “Hải Đường tuy chết nhưng tôi cũng muốn vào lãnh cung xem thử nơi mà bà ta đã sống hơn hai mươi năm nay”. Hầu Tam Biến lặng lẽ không nói. Trong bóng tối, Đường Hiểu Lan trào nước mắt, nói: “Tôi cũng muốn đi một lần nữa”. Hầu Tam Biến nghĩ ngợi một hồi, thở dài nói: “Một triều thiên tử một triều thần, sau này tôi cũng không muốn ở trong cung nữa, tôi sẽ dắt các người đi một chuyến”.
Rất lâu sau, bên ngoài yên tĩnh, Hầu Tam Biến dắt bọn Lãnh Thiền theo đường nhỏ đến lãnh cung, tuy đôi lúc có người tra hỏi nhưng chẳng phải là người của Dận Trinh, Hầu Tam Biến chỉ cần nói ám ngữ là đi qua được. Đi một hồi, lại đến một hồ sen, nước trong hồ lấp lánh ánh sáng bạc, Hầu Tam Biến nói: “Gian nhà đá ở bên hồ sen chính là lãnh cung”. Đến trước lãnh cung, chợt thấy cánh cửa đá khép hờ, Hầu Tam Biến rất ngạc nhiên, Lãnh Thiền chạy tới phía trước, đẩy cửa bước vào, chợt nghe có người hỏi: “Ai đấy?”.
Té ra đó là hai cung nữ vào quét dọn. Lãnh Thiền hơi ngạc nhiên, hình như ông ta đã gặp hai cung nữ này ở đâu. Ông ta xông tới hỏi: “Các người có biết Hải Đường không?” hai cung nữ ấy hoảng hồn, nói: “Hòa thượng nhà ông vào đây làm gì thế?” Hầu Tam Biến bước tới, nói: “Y là người dắt đường cho Hoàng thượng, sao các ngươi không đáp lời?” Liễu Ân hòa thượng theo Dận Trinh vào cung, việc đó đã đồn ầm trong cung, hai cung nữ này tưởng Lãnh Thiền là “Bảo Quốc thiền sư”, sợ đến nỗi tái mặt, Lãnh Thiền quát: “Nói mau!” một người mới trả lời: “Hải Đường đã chết, chính tôi đã khiêng bà ta ra khỏi chỗ này!”
Ánh mắt Lãnh Thiền chợt hiện lên tia nhìn kỳ dị, ông ta đau đớn vặn tay, chợt hỏi: “Có phải khiêng ra bằng giường tre không?” cung nữ đáp: “Đúng vậy!” Lãnh Thiền đứng sửng ra, chợt nhớ lại chuyện lúc trước, bốn cung nữ khiêng một cái giường tre, trên giường có một người đàn bà bệnh hoạn đắp vải trắng, đầu tóc bạc phơ, sắc mặt rất đáng sợ, móng tay trông như vuốt gà. Chả lẽ trong đêm hôm ấy, người đàn bà xấu xí chính là nàng Hải Đường đẹp như tiên năm xưa hay sao? Nhìn kỹ lại, hai cung nữ này chính là hai người mà y đã gặp lúc đó. Vậy người đàn bà sắp chết kia chắc chắn là Hải Đường. Trong khoảng sát na, muôn vàn suy nghĩ đã dâng trào chợt trầm lắng xuống, Lãnh Thiền vừa trải qua một khoảnh khắc chưa từng có.
Hầu Tam Biến thấy Lãnh Thiền đứng sửng ra như pho tượng đá, mắt như đứng tròng, chỉ tưởng rằng ông ta đau đớn quá hóa điên, vội vàng kéo ông ta nói: “Chúc đại ca, hãy nên nhìn thoáng một chút”. Lãnh Thiền chợt cười ha hả: “Giải thoát khỏi cái túi gia thối tha, trả lại tướng trang nghiêm. Túi gia thối tha và tướng trang nghiêm vốn cùng một vật. Sắc tức là không, không tức là sắc, lúc này ta mới hiểu”.
Hầu Tam Biến thấy ông ta nói năng lung tung, lòng lo như lửa đốt, đang định tìm lời khuyên giải. Lữ Tứ Nương mỉm cười, chắp tay nói: “Chúc mừng đại sư đã hiểu ra thiên lý, từ rày Linh Sơn sẽ bằng phẳng!” Hầu Tam Biến và Đường Hiểu Lan ngạc nhiên, Lữ Tứ Nương nói: “Các người đừng quấy rối ông ta, ông ta đã hiểu ra mọi thứ”.
Lữ Tứ Nương cũng có nghiên cứu sâu sắc về kinh Phật. “Nhiên Đăng lục” có kể một câu chuyện, một cao tăng hỏi Phật Nhiên Đăng rằng: “Cổ Phật tâm là gì?” Phật Nhiên Đăng đáp rằng: “của cải tịnh châu nặng ba cân”. Và hỏi: “Đạo là gì?” Nhiên Đăng liền miệng nói: “Thiên cẩu quyết, thiên cẩu quyết!” khi hỏi lại, Nhiên Đăng lại giơ ngón tay nói: “Không thể nói không thể nói”. Đoạn “ngữ lục” này chính là Diệu đế đại thừa trong kinh Phật, có nghĩa là chân lý có khắp mọi nơi, trong những sự vật nhơ nhuốc nhất cũng sẽ thấy được thứ trang nghiêm nhất. Nhơ nhuốc và trang nghiêm vốn đối lập nhau, nhưng trong nhơ nhuốc vẫn ươm mầm giống mới, cũng giống như thế giới mới thoát thai từ thế giới cũ. Lãnh Thiền nhớ đến nàng Hải Đường xinh đẹp năm xưa, đến khi chết lại trở nên xấu xí như thế, lúc đầu không khỏi đau đớn muôn phần, nhưng tình cảm mau chóng tịnh hóa thăng hoa, đột nhiên thần trí sáng suốt.
Hai cung nữ thấy y tựa như điên dại, bộ dạng của Lãnh Thiền cũng không giống như Liễu Ân mà bọn thái giám đã tả, vì thế mới cẩn thận hỏi: “Các người có biết Vương đội trưởng không? Y sắp đến đây, chúng tôi còn phải quét dọn!”
Hầu Tam Biến nói: “Vương đội trưởng nào?” cung nữ đáp có vẻ nghi hoặc: “Nghe nói tên là Vương Lăng, các người đều là người theo Thánh thượng, chả lẽ không biết nhau?” Đường Hiểu Lan vừa kinh vừa mừng, thầm nhủ: “Đi mòn gót sắt mà chẳng thấy, kiếm được chẳng mất công phu”. Vội đáp: “Quen, quen chứ! Y là bằng hữu thân nhất của tôi, y sống ở đây à?” cung nữ trả lời: “Trời vừa sáng sẽ dọn tới, nên các tổng quản sai chúng tôi quét dọn nguyên đêm”. Đường Hiểu Lan nói: “Tốt lắm, chúng tôi đợi y ở đây” rồi đẩy cửa bước vào.
Bọn Hầu Tam Biến theo vào, Hầu Tam Biến nhìn sắc trời, khẽ nói: “Trời sắp sáng, các người chưa ra sao?” Lữ Tứ Nương cũng cảm thấy Đường Hiểu Lan có vẻ khác lạ, hỏi: “Vương Lăng là ai? Đợi chờ y làm gì, đến khi trời sáng rất khó ra”. Đường Hiểu Lan nói: “Y là sư huynh của tôi”. Rồi kể chuyện Vương Lăng phản thầy, đoạt sư tẩu. Lữ Tứ Nương vốn đã nghe chàng kể chuyện, có điều không nhớ Vương Lăng, nghe chàng nói thế mới cười rằng: “Té ra là thế, chúng ta phải ở lại trong cung thêm một ngày nữa”. Hầu Tam Biến cũng nói: “Trên đời có hạng tiểu nhân đê tiện như thế, họ Hầu này cũng không tha cho y”. Lãnh Thiền thì im lặng không nói, đi đi lại lại trong phòng, cầm cây dao cầm ở góc phòng lên, búng mấy tiếng, Đường Hiểu Lan nhớ lại chuyện xưa, bất giác buồn bã. Cung nữ bước vào nói: “Ồ, ở đây còn có một cây đàn cũ, ném đi thôi”. Lữ Tứ Nương nói: “Không cần, để ta mang ra ngoài cũng được”. Một hồi sau, sắc trời dần sáng. Bên ngoài có tiếng bước chân, Vương Lăng và hai tên thị vệ bước vào. Té ra y đã là một đội trưởng thị vệ nhỏ dưới trướng của Dận Trinh, Dận Trinh lên ngôi, y cũng theo vào cung. Lúc này Cáp Bố Đà cũng được thăng làm tổng quản thị vệ, Cáp Bố Đà biết võ công của Vương Lăng cũng bình thường, vì thế sắp xếp cho y làm một chức nhỏ, bảo y canh giữ ở một góc ngự hoa viên, cho y ở trong lãnh cung. Vương Lăng được phân vào ở trong cung điện, mặc cho có phải là lãnh cung hay không, trong lòng cũng rất đắc ý, vì thế mới sáng sớm đã đem hành lý tới, ngoài ra còn dắt theo hai tên thị vệ thuộc hạ.
Vương Lăng vừa bước vào lãnh cung đã ngửi thấy mùi ẩm mốc, y nhíu mày quát cung nữ: “Sao chưa quét sạch sẽ?” lại nói: “Vách tường này phải sơn lại một lượt”. Đang ra oai làm phúc, trong phòng chợt một người xông ra, Vương Lăng và hai tên thị vệ đã kêu thảm ngã xuống đất. Chỉ nghe Đường Hiểu Lan cười lạnh: “Vương thị vệ, lâu nay vẫn mạnh giỏi chứ? Giờ đây ngươi đắc ý, có còn nhận ra ta không?”.
Vương Lăng bị Đường Hiểu Lan dùng thủ pháp chớp nhoáng điểm ngã, sợ đến nỗi hồn bay phách tán, lúng túng nói: “Đường sư đệ, ngươi... ngươi...” Đường Hiểu Lan co chân đạp lên be sườn y, quát hỏi: “Phùng sư tẩu đâu?” Vương Lăng nói: “Không có ở đây”. Đường Hiểu Lan nói: “Có phải ngươi đã hại sư tẩu?” Vương Lăng nói: “Ngu huynh không dám”. Đường Hiểu Lan quát nói: “Ai xưng huynh gọi đệ với ngươi? Nói mau, sư tẩu ở đâu?” Vương Lăng nói: “Ta cũng không biết nàng ở đâu”. Đường Hiểu Lan cả giận, mũi chân hơi dùng lực, Vương Lăng đã đau đến nỗi chết đi sống lại, kêu: “Nàng đã thoát từ lâu!” Đường Hiểu Lan không tin, lại dùng lực đạp thêm một cái, Vương Lăng kêu thảm ngất đi. Hai ả cung nữ mặt tái mét đứng co rúm ở một góc. Lữ Tứ Nương nhảy ra, kéo họ vào trong phòng, mỉm cười nói: “Không cần dọa bọn chúng”.
Một hồi sau, Vương Lăng dần dần tỉnh dậy, Đường Hiểu Lan quát hỏi: “Ngươi còn không nói thực?”
Vương Lăng rên rỉ: “Nàng thực sự đã bỏ đi, ngươi có đánh chết ta ta cũng không biết nàng đi đâu”. Đường Hiểu Lan thấy y đau đến nỗi chết đi sống lại, thầm nhủ: “Sư tẩu võ công cao hơn y, có lẽ đã thực sự chạy thoát”. Rồi lại hỏi: “Chạy lúc nào?” Vương Lăng nói: “Vào kinh được ba ngày thì đã chạy”.
Đường Hiểu Lan đoán không sai, Quảng Luyện Hà vì võ công cao hơn Vương Lăng, may mà thoát khỏi miệng cọp, té ra năm ấy Quảng Luyện Hà bị Song ma bắt lại, trao cho Vương Lăng, Vương Lăng buộc nàng thành than, nàng bảo rằng: “Phải để tang cho cha và chồng, chưa đầy một trăm ngày không thể thành thân”. Vương Lăng có võ công không bằng nàng, không gần nàng được, sau khi đến kinh thành, hai tên ma đầu vào Vương Phủ, không còn gần gũi với Vương Lăng nữa. Trên đường Quảng Luyện Hà không dám bỏ chạy là vì sợ Song ma, nay Song ma đã đi, Vương Lăng chẳng phải là đối thủ của nàng, bị nàng đánh cho một trận rồi bỏ đi.
Hầu Tam Biến bước ra, nhíu mày: “Hỏi xong chưa? Trời sắp sáng rồi!”. Đường Hiểu Lan ngửa mặt cười thảm, kêu: “Phùng sư ca, hôm nay đệ báo thù cho huynh!” Rồi vỗ xuống một chưởng, đánh vỡ tim bên trái của Vương Lăng.
Hầu Tam Biến nói: “Chạy mau, coi chừng không kịp nữa!” Lúc này trời vừa sáng, tuyết vẫn chưa tan, ngoài vườn có tiếng tù và kêu lên tu tu, Hầu Tam Biến nói: “Tân tổng quản thật là vất vả, trời chưa sáng đã triệu tập thị vệ!” Rồi chạy ra khỏi lãnh cung, dắt theo bọn Lữ Tứ Nương.
Cáp Bố Đà trở thành tổng quản thị vệ trong cung, mới ngày đầu tiên mà chuyện lớn đã xảy ra, trong lòng rất bực dọc. Vì thế mới sáng sớm đã triệu tập thị vệ, chuẩn bị bỏ người cũ thay người mới. Vừa mới ra hoa viên, chợt thấy mấy bóng người chạy về góc Tây bắc, kẻ đi đầu là Lữ Tứ Nương. Cáp Bố Đà cả giận, thầm nhủ: “Ả tiện tì này thật lớn gan, dám qua đêm trong cung!”. Thế rồi vung hai tay lên, hai trái cầu tròn xé gió bay ra, Lữ Tứ Nương cười nói: “Huyết Trích Tử có thể làm gì được ta!” rồi phóng vọt người lên, cây Sương Hoa kiếm hất lên, ánh hào quang lướt tới, chém đứt Huyết Trích Tử, mười hai mũi khoái đao bên trong bắn ra bốn hướng, Hầu Tam Biến cũng bắt chước theo nàng, quét vù một gậy, đánh rơi trái Huyết Trích Tử vào trong đám thị vệ, một thị vệ vội vàng né tránh, Cáp Bố Đà kêu lớn: “Đuổi theo mau!” bọn Lữ Tứ Nương đã vọt qua mấy hòn non bộ, chạy đến cửa Thuận Trinh.
Hầu Tam Biến thở phào, chợt nghe có tiếng quát lớn, bên trái có Đổng Cự Xuyên, bên phải có Thiên Diệp Tản Nhân dắt thị vệ phóng tới, Lữ Tứ Nương và Hầu Tam Biến nói: “Theo ta!” Bên ngoài cửa Thuận Trinh là Cảnh Sơn, có quá nửa người giữ cửa là thị vệ cũ, Hầu Tam Biến chạy tới phía trước, quát: “Có thích khách chạy ra ngoài, các người có thấy không?” Thị vệ canh cửa nói: “Không thấy!” Hầu Tam Biến nói: “Mau mở cửa để ta đuổi theo!” Bọn thị vệ mới thấy bốn người bọn họ có nhà sư có thiếu nữ thì rất nghi hoặc, quát hỏi: “Các người là ai?” Hầu Tam Biến nói: “Ngự tiền thị vệ...” trong lúc hỗn loạn cánh cửa sắt bật mở, bọn bốn người Hầu Tam Biến phóng ra. Đến khi Đổng Cự Xuyên đuổi tới, cửa sắt đã đóng trở lại. Các thị vệ cũ tra xét thân phận của y, đến khi rõ ràng thì bọn Lữ Tứ Nương đã mất dạng. Cáp Bố Đà nổi cáu nhưng cũng không thể nào trách các thị vệ cũ. Bởi vì Hầu Tam Biến đúng là ngự tiền thị vệ rất có thế trong cung trước kia, không ngờ rằng tiên đế vừa chết y đã làm phản.
Lại nói bọn Lữ Tứ Nương được Hầu Tam Biến giúp đỡ chạy ra khỏi đại nội, Đường Hiểu Lan nói: “Lữ tỷ tỷ, thanh kiếm của đệ đã bị Liễu Ân đoạt mất”. Lữ Tứ Nương nói: “Sau này sẽ tìm y tính sổ. Chúng ta về chỗ thất ca thương lượng”. Hầu Tam Biến cũng nói: “Sau lần này, các thị vệ cũ chắc chắn sẽ bị trách tội. Nhân sự trong cung có điều động, phòng bị càng ngặt nghèo hơn, chúng ta không thể mạo hiểm nữa”.
Bốn người về đến Tây Sơn, Bạch Thái Quan bước ra mở cửa cười nói: “Sao lúc này các người mới quay về, suýt nữa thất ca và Quan Đông tứ hiệp đã vào cung tìm các người...”. Lãnh Thiền cười nói: “Quan Đông tứ hiệp cũng đến rồi ư?” Rồi phóng vào trong.
Lữ Nương và Đường Hiểu Lan lần lượt chào hỏi Quan Đông tứ hiệp, Lang Nguyệt thiền sư nói: “Bốn huynh đệ chúng tôi lần này thảm bại trong tay một thiếu nữ và một lang trung giang hồ đó...”. Lãnh Thiền kinh hãi nói: “Sao? Các người đã động thủ với họ?” Trần Nguyên Bá kéo tay áo chỉ vết đao trên tay, nói: “Ả tiểu nha đầu ấy thật độc ác, nếu không phải Huyền Phong đại ca biết y thuật, tôi đã mất cánh tay này!”.
Liễu Tiên Khai nói: “Lần này chúng tôi đến Bắc Kinh, khi đi ngang qua Vinh Dương, Huyền Phong đại ca có việc, bảo chúng tôi đi trước, chúng tôi vừa đến Hổ Lao Quan thì đã gặp một tiểu nha đầu và một thiếu niên đi cùng đường”. Đường Hiểu Lan nói: “Tiểu nha đầu nào thế?” Trần Nguyên Bá nghiến răng nói: “Chính là tiểu nha đầu mà Dận Trinh nuôi dưỡng, lần trước đại náo tứ vương phủ, chúng tôi đã gặp ả. Bởi vậy tôi thấy ả đáng yêu mới bước tới hỏi, nào ngờ ả vung tay phóng ba mũi phi đao, khoảng cách quá gần, tôi né không kịp nên đành gồng tay lên chịu đựng. Không ngờ võ công của ả nha đầu cũng rất cao cường, mũi phi đao ở giữa đâm vạch một đường trên cánh tay của tôi, da thịt lập bức bầm đen, té ra ả sử dụng phi đao tẩm độc!” Đường Hiểu Lan kêu: “Ồ, chắc chắn đó là Phùng Lâm!” Lữ Tứ Nương lại nói: “Có phải chàng thiếu niên đi cùng ả nha đầu sử dụng kiếm pháp rất kỳ lạ hay không?” Liễu Tiên Khai nói: “Đúng thế”. Lữ Tứ Nương nói: “Vậy ả nha đầu không phải là Phùng Lâm, mà là đệ tử quan môn của Dịch lão tiền bối”. Đường Hiểu Lan nói: “Phùng Anh ra tay không độc địa như thế, với lại cũng không biết dùng phi đao tẩm độc. Khi tôi ở Thiên Sơn, cũng từng gặp nàng, nàng ta rất hiền lành!” Lữ Tứ Nương rất ngạc nhiên, hỏi: “Nghe nói điệt nữ của đệ là tỉ muội song sinh, ắt hẳn rất giống nhau?” Đường Hiểu Lan nói: “Cả đệ cũng không phân biệt được”. Lữ Tứ Nương nói: “Phải rồi, chắc chắn Lý Trị đã nghĩ cô em là cô chị!” Liễu Tiên Khai nói: “Lý Trị là ai?” Lữ Tứ Nương nói: “Là con trai của Võ Quỳnh Giao trong Thiên Sơn thất kiếm”. Liễu Tiên Khai kêu ối cha một tiếng, nói: “Sao lại thế? Tôi đã giao thủ với y, tôi trúng một kiếm, y cũng trúng một vòng kim hoàn. Nếu Võ lão tiền bối mà biết chắc sẽ trách cứ đây!” Đường Hiểu Lan nói: “Võ lão tiền bối đã tu luyện đến mức lư hỏa thuần thanh, chắc là sẽ không giận”. Lữ Tứ Nương nói: “Liễu đại hiệp, các người hãy kể chuyện trước rồi tôi sẽ cho biết lai lịch cô ả nha đầu ấy”.
Liễu Tiên Khai nói: “Sau khi tứ đệ trúng phi đao tẩm độc của tiểu nha đầu, tôi động thủ với thiếu niên, cả hai đều bị thương, ả nha đầu còn muốn đuổi theo, may mà tôi giỏi khinh công mới cứu được tứ đệ. Chuyện sau đó, Huyền Phong đại ca sẽ nói...”
Huyền Phong nói: “Tôi để họ đi trước một đoạn, nào ngờ lại xảy ra chuyện, họ quay trở về gặp tôi, lúc đó tôi nổi cáu phải tìm cho bằng được ả nha đầu. Tôi nghĩ thiếu niên ấy đã bị thương, ắt hẳn không thể chạy xa được. Tôi băng bó vết thương cho tam đệ và tứ đệ liền đến vùng núi gần Hổ Lao quan tìm khắp, cho đến tối mới phát hiện thiếu niên nhưng chẳng thấy tiểu nha đầu đâu cả. Đột nhiên một tên lang trung giang hồ quái dị xuất hiện, thật không ngờ!” Lãnh Thiền thầm cười: “Những kẻ đã uy danh như Quan Đông tứ hiệp mà bại trong tay ả tiểu nha đầu ấy, chả trách nào Huyền Phong không tức giận. Nhưng gặp phải sư phụ của mình mà còn làm dữ, trách ai được”. Nhưng ông ta không nói ra, chỉ mỉm cười bảo: “Huyền Phong đạo trưởng, thật không ngờ thế nào?”.
Huyền Phong nói: “Thiếu niên đã gặp chúng tôi, khẽ nói mấy câu với lão lang trung. Lão lang trung ấy nổi giận, không đợi chúng tôi lên tiếng đã vung gậy đánh tới, chao ôi, đánh một hồi chúng tôi bỏ chạy”.
Lãnh Thiền mỉm cười, biết trong Quan Đông tứ hiệp, Huyền Phong lớn tuổi nhất, bản lĩnh cao cường nhất nhưng cũng là kẻ háo thắng nhất, liền nói: “Huyền Phong đạo trưởng đừng nổi giận, thua trong tay lang trung ấy có là gì”. Huyền Phong nổi sùng nói: “Ông còn nói, tôi thấy thủ pháp của lão và ông rất giống nhau, chắc là cùng một môn hộ!” Lãnh Thiền cười: “Đâu chỉ là cùng môn hộ, ông ta là sư phụ của tôi, và lão tiền bối ở Thiên Sơn chính là tỷ tỷ của người, người đã đắc tội với các vị, kẻ làm đồ đệ này xin lỗi các vị”. Huyền Phong cả kinh, chẳng nói ra lời. Lãnh Thiền nói: “Đã ba mươi năm qua người không đến Trung Nguyên nên không biết các vị, mong đạo trưởng đừng giận”. Huyền Phong cười ha hả: “Nếu đã là ông ta, chúng tôi thua cũng chẳng còn lời gì mà nói”. Lăng Nguyệt thiền sư nói: “Đại sư hình như không lớn tuổi hơn ông ta bao nhiêu”. Lãnh Thiền nói: “Đến tuổi trung niên tôi mới theo thầy học nghệ”. Cam Phụng Trì lại bảo: “Đáng tiếc ả tiểu nha đầu lại biến mất, các vị động thủ với Võ lão tiền bối mà ả vẫn không xuất hiện sao?” Huyền Phong bảo: “Không”.
Số là sau khi Phùng Lâm được Niên Canh Nghiêu thả đi, một lòng muốn học nội công chính tông, đêm ấy giả thần giả quỷ, dụ Lý Trị đi ra, Lý Trị thấy nàng rất vui. Phùng Lâm nói: “Cựu cựu của ngươi có việc lên Nam Sơn trước, bảo chúng ta đuổi theo”. Võ Quỳnh Giao vốn đã nhờ em trai âm thầm lo lắng cho con mình, nên trước khi đấu với Liễu Ân ở Hàng Châu, Võ Thành Hóa đều không gặp mặt. Phùng Lâm nói đùa một hồi mà lại trúng. Lý Trị nghĩ thầm: “Chắc là mẹ và cựu cựu muốn mình lăn lộn giang hồ nên cựu cựu không đi cùng với mình”. Rồi lại nghĩ: “Phùng Anh rất quen thân với cựu cựu, ắt hẳn sẽ không lừa mình”. Vì thế mới yên tâm theo Phùng Lâm rời khỏi Hàng Châu.
Trên suốt quãng đường Phùng Lâm nghĩ đủ mọi cách hỏi chàng bí quyết nội công, Lý Trị chỉ tưởng đó là Phùng Anh nên không hề cảnh giác, nói hết mọi thứ mà mình biết. Phùng Lâm chẳng ghét cũng chẳng thương Lý Trị, đi cùng với chàng chỉ có mục đích là lừa chàng truyền thụ tâm pháp nội công, nay mục đích đã đạt nên mới nghĩ cách bỏ chàng.
Thật trùng hợp, khi họ sắp đến Nam Sơn, thì gặp Liễu Tiên Khai và Trần Nguyên Bá ở Hổ Lao quan, Phùng Lâm dùng phi đao tẩm độc đả thương Trần Nguyên Bá, Lý Trị cũng đâm Liễu Tiên Khai một kiếm, nhưng Liễu Tiên Khai khinh công cao cường, Lý Trị cũng trúng một đòn của ông ta vào chỗ yếu hại, lập tức bị trọng thương. Phùng Lâm đỡ chàng đến chỗ rừng rậm, để lại một túi thuốc giải rồi lặng lẽ bỏ đi.
May mà Võ Thành Hóa đuổi theo sau, đến bìa rừng nghe Lý Trị rên rĩ, bước vào xem, thấy chàng trọng thương mới mở bao thuốc giải ra xem, thì thấy toàn là những thứ thuốc quý mới lập tức bôi cho chàng, đến khi hỏi ra mọi lẽ thì thấy rất lấy làm lạ. Ông ta nói: “Linh dược của Thiên Sơn tuy nhiều, nhưng Diệp lão tiền bối không có loại thuốc giải này”. Ông ta không biết rằng đó là thuốc Phùng Lâm lấy trong phủ Dận Trinh. Lý Trị cũng nổi lòng nghi ngờ, cả hai cậu cháu chưa kịp nói rõ, Quan Đông tứ hiệp đã nhất tề kéo tới.
Số là Quan Đông tứ hiệp mỗi người đều có võ công độc môn, nếu lấy một địch bốn, Võ Thành Hóa chắc không bại nhưng cũng chẳng chiếm được phần hơn, nhưng Liễu Tiên Khai và Trần Nguyên Bá đã bị thương, mà Lý Trị sau khi được bôi thuốc giải, cánh tay đã vận động tự nhiên, cả hai cậu cháu liên thủ, đã đánh Quan Đông tứ hiệp đại bại, may mà họ không đuổi theo.
Quan Đông tứ hiệp kể xong, Lữ Tứ Nương cũng nói ra lai lịch của Lý Trị và Phùng Lâm, ai nấy đều than thở. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi thề sẽ tìm lại điệt nữ, nay mới biết tung tích của nó, tôi phải đi Hà Nam một chuyến”. Cam Phụng Trì nghĩ ngợi một hồi, nói: “Đệ hãy trở về chỗ Dận Đề trước. Huynh đoán Dận Trinh lên ngôi, chắc chắn không để Dận Đề ở lại kinh thành, nếu y cầm quân đánh phía Tây, chắc chắn sẽ đi qua Hà Nam. Đệ đến nơi hãy tùy cơ ứng biến, xúi dục huynh đệ bọn chúng đánh một trận. Dù không thành cũng lôi kéo được người Hán trong quân”. Ngập ngừng rồi lại nói: “Lẽ ra chúng ta phải tụ tập nghĩa quân, dựng cờ nghĩa. Nhưng đệ đã mất rất nhiều tâm huyết mới lấy được lòng tin của Dận Đề, bỏ qua cơ hội này thật đáng tiếc”. Lữ Tứ Nương đảo mắt, đang định lên tiếng, Cam Phụng Trì đã nói tiếp: “Bát muội sợ Đường hiền đệ một mình vào chốn nguy hiểm, nhưng trong quân của Dận Đề cũng có các huynh đệ. Vả lại, sau khi chúng ta biết được chính xác ngày giờ Dận Đề xuất phát, chúng ta phải chia thành từng tốp đến Hà Nam”. Lữ Tứ Nương nghĩ bụng rồi lại nói: “Cũng được, chúng ta lên Nam Sơn tảo mộ sư phụ, xong xuôi rồi trở về Tiên Hà lĩnh”.
Cam Phụng Trì đã đoán trúng ý nghĩ của Dận Trinh, y quả nhiên không để Dận Đề ở lâu trong kinh thành. Đêm ấy sau khi biết Dận Trinh lên ngôi, Dận Đề rất tức giận, suốt đêm quay lại chỗ đóng quân, không ngờ Niên Canh Nghiêu đã dùng thủ đoạn như sấm chớp tước đoạt binh quyền của y. Té ra Niên Canh Nghiêu vừa đến đã triệu tập các võ quan của hai mươi bốn doanh trong quân Dận Đề đến, tuyên bố Dận Trinh nối ngôi, bảo phải trung thành với bọn họ. Các tướng lĩnh này tuy là tâm phúc của Dận Đề, mong muốn Dận Đề lên nối ngôi nhưng vừa nghe nói Dận Trinh đã ngồi lên ngai vàng, quá nửa đã đổi lòng, bọn chúng chỉ cần giữ công danh lợi lộc của mình là đủ, lại còn có kẻ đã manh nha phản bội. Đến chiều hôm ấy, chiếu chỉ đổi niên hiệu thành Ung Chính đã ban ra, cả các võ quan ở Phi Long quân, các quân đáng tin cậy nhất của Dận Đề cũng dao động.
Dận Đề trở về trong quân, suốt đêm triệu tập các tướng lĩnh tâm phúc bàn bạc, trong mười hai viên thống lĩnh của quân Phi Long có đến bảy người không tán thành đối chọi với Niên Canh Nghiêu, phó thủ của Dận Đề là Bác Khắc Đồ cũng nói: “Tứ bối lạc đã lên ngôi báu, Niên Canh Nghiêu thay mặt thiên tử ra lệnh cho chư hầu, nếu chúng ta muốn trừ y, chỉ e lòng quân không nghe”. Dận Đề im lặng không nói, thầm nhủ: “Các tướng lĩnh thân tính nhất mà cũng nói như thế, chắc chắn là chẳng thể bàn được với các doanh khác”. Rồi lại nghĩ: “Ở lại núi xanh sợ gì không có củi đốt, Niên Canh Nghiêu dù lớn mạnh hơn nữa nhưng chẳng qua cũng chỉ là phó tướng của mình, binh quyền vẫn còn trong tay mình, mình có thể tạm thời nhẫn nhịn, sau này xuất chinh Tây vực, có thể dùng kế mượn đao giết người, đẩy cánh quân của Niên Canh Nghiêu đi tiên phong, để cho kẻ địch tiêu diệt y. Lúc đó đã cách kinh thành ngàn dặm, dù mình không thể đoạt ngôi báu nhưng cũng có thể tự củng cố, làm vua ở Tây vực, chẳng còn bị Dận Trinh bức hiếp”. Thế là ý vua đã quyết, liền bảo: “Nếu như thế, cứ để tên tiểu tử Niên Canh Nghiêu làm phó tướng, nhưng chúng ta phải phòng bị y”. Các tướng lĩnh quay ra, Dận Trinh lại cùng Bác Khắc Đồ bàn bạc, Bác Khắc Đồ cũng tán thành. Sáng sớm hôm sau Dận Đề lập tức dâng sớ xin được Tây chinh. Rồi mới gởi sớ đi, trung quân báo Đường Hiểu Lan xin gặp. Dận Đề cả mừng, truyền chàng vào trướng, nói: “Hoạn nạn mới thấy lòng người, khi ta thất thế chỉ có ngươi mới giúp ta. Ta chắc chắn không đối xử tệ với ngươi”. Rồi lại hỏi Đường Hiểu Lan làm sao thoát được, Đường Hiểu Lan nói: “Đêm qua trong đại nội có thích khách, tiểu nhân thừa lúc hỗn loạn chạy ra ngoài”. Dận Trinh đoán những thích khách ấy là do các bối lạc khác phái đến, thế là liền thăng Đường Hiểu Lan làm phó tổng binh quan của cận vệ quân, xếp ngang hàng với Xa Tịch Tà và Phương Kim Minh.
Dận Trinh nhận được tấu sớ, trong bụng rất mừng, liền truyền thánh chỉ bảo Dận Đề sang năm mới sẽ lập tức cầm quân đánh Tây vực. Đồng thời từ đó y lại nghĩ cách xử trí bọn người Liễu Ân, điều Liễu Ân, Tát Thiên Thích, Tát Thiên Đô, Đổng Cự Xuyên, Cam Thiên Long đến chỗ Niên Canh Nghiêu, bảo họ giúp Niên Canh Nghiêu Tây chinh, rồi âm thầm cho gọi Niên Canh Nghiêu, bảo rằng: “Trong số năm tên này ngoại trừ Đổng Cự Xuyên hiểu đại thể ra, bốn người kia đều là kẻ dã tính khó thuần, sau khi Tây chinh, nếu bốn tên này chưa chết ngươi hãy trừ bọn chúng cho trẫm”. Niên Canh Nghiêu lạnh mình, nổi da gà, nhưng nghĩ kỹ lại, cảm thấy Dận Trinh tin tưởng mình, y vừa tin vừa mừng, vội vàng dập đầu nhận chỉ. Y không ngờ rằng, mặt khác, y cũng căn dặn năm người này canh chừng Niên Canh Nghiêu. Đó là thủ pháp chế ngự các công thần của Dận Trinh.
Chớp mắt năm mới đã đến, Dận Đề dùng danh nghĩa Phủ viễn đại tướng quân, cầm quân Tây chinh, Niên Canh Nghiêu là Phó đại tướng quân, được thăng lên làm ba cấp, Dận Trinh lại phái năm vạn tinh binh cho Niên Canh Nghiêu nắm giữ, nên Niên Canh Nghiêu tuy làm phó tướng nhưng thực lực lại ngang bằng với Dận Đề, đôi bên phải đề phòng lẫn nhau.
Một tháng sau, đại quân đã đến trấn Chu Tiên tỉnh Hà Nam, cách quê hương Trần Lưu của Niên Canh Nghiêu không đầy một ngày đường, Niên Canh Nghiêu hạ lệnh cho đại quân nghỉ ngơi ba ngày. Hôm nay, Đường Hiểu Lan cùng vài võ quan trong cận vệ quân đến trấn uống rượu, đứng trên lầu cao nhìn về phía Bắc thấy Khai Phong, nhìn về phía Nam thấy Hứa Xương, tình thế quả nhiên hiểm yếu, nhớ lại đây chính là nơi năm xưa Nhạc Võ Mục đại phá quân Kim, lòng cảm khái muôn phần, thầm nghĩ Mãn Châu nhập quan, tàn bạo còn hơn cả năm xưa quân Kim chiếm Tống, lòng nghĩ mình lấy thân phận người Mãn dự vào việc phục quốc của người Hán, chàng thật không ngờ đến điều này. Đang suy nghĩ mông lung, chợt thấy dưới lầu ồn ào.
Đường Hiểu Lan bước xuống lầu xem, thì thấy có đám dân ùa nhau chạy trốn, Đường Hiểu Lan kéo một người hỏi: “Chuyện gì?” Người ấy thấy Đường Hiểu Lan ăn mặc theo kiểu võ quan, nói: “Đại nhân thứ tội, tiểu nhân sống theo vương pháp, không phải là kẻ xấu”. Đường Hiểu Lan nói: “Ngươi bảo gì thế?” người ấy thấy Đường Hiểu Lan ra vẻ thân thiện, y yên tâm nói: “Bên ngoài trấn có một toán quân, nghe nói là đến bắt tù phạm”. Đường Hiểu Lan buông tay, thầm nhủ: “Thật là lạ, đang lúc hành quân sao lại bắt tù phạm? Dận Đề và Niên Canh Nghiêu xưa nay trị quân rất nghiêm, không thể bảo có chuyện xua quân đi quấy rối, với lại đại quân đóng ở ngoài trấn, ngoại trừ các võ quan, binh sĩ không được vào thành, toán quân này ở đâu tới đây?” Chàng đang suy nghĩ, thấy phía trước bụi cuốn mù trời, người càng lúc càng đông, Đường Hiểu Lan cũng bị dòng người đẩy đi mấy bước, đột nhiên bị người ta đẩy mạnh một cái, Đường Hiểu Lan luyện võ nhiều năm, bị người ta đẩy một cái, chợt cảm thấy khác lạ, thế là chàng sờ vào người, túi tiền, bảo kiếm và mảnh Hán bạch ngọc của Khang Hy đã không còn nữa. Túi tiền thì không sao còn thanh kiếm là do Dận Đề tặng cho, phải lấy về cho bằng được, thế là chàng vung hai tay, lướt ra khỏi đám người, chỉ thấy phía trước có một người trừng mắt nhìn mình, cây kiếm của mình thì đeo bên hông của y, mảnh kháng bạch ngọc đang trong tay của y. Đường Hiểu Lan nổi cáu, co giò đuổi theo, thật là kỳ lạ, người ấy không lẫn vào đám đông mà cứ chọn những chỗ ít người lẫn vào, Đường Hiểu Lan nổi lòng nghi ngờ, đuổi sát theo sau.
Người ấy càng chạy càng nhanh, vả lại còn ngược hướng với chỗ đóng quân, Đường Hiểu Lan phấn chấn tinh thần, thi triển khinh công thượng thừa đuổi theo như điện chớp, càng chạy càng xa. Đường Hiểu Lan dốc hết bản lĩnh mà chẳng đuổi theo kịp, Đường Hiểu Lan rất kinh hãi. Khing công của chàng tuy không bằng Lữ Tứ Nương nhưng cũng hiếm thấy trong giang hồ, thế nhưng khinh công của người này còn cao hơn cả Đường Hiểu Lan, xem ra chẳng kém gì Vạn Lý Truy Phong Liễu Tiên Khai, rõ ràng đây không phải là kẻ trộm bình thường.
Đường Hiểu Lan giật mình, cố y chậm bước, người ấy hình như có mắt sau lưng, bước chân cũng chậm lại, Đường Hiểu Lan kêu lên: “Bằng hữu ở trước mặt, chúng ta không quen biết nhau, cớ gì lại trêu đùa như thế?” người ấy quay lại làm mặt xấu, nói: “Thanh kiếm vô dụng này đáng mấy đồng tiền, mảnh ngọc cũng chỉ có vài ba lạng bạc!” Đường Hiểu Lan chợt tung người vọt tới, chụp lấy y, người ấy kêu lên: “Ôi chao, không xong!” rồi hít ra một cái, lướt ra mấy trượng, cười nói: “Còn may, không thất thủ!” Đường Hiểu Lan chụp mấy viên sỏi, dùng thủ pháp Liên châu đạn ném về phía y. Vì chàng chưa biết lai lịch của y, nên không cố ý đánh y, chỉ dùng mấy phần lực, cố ý ném viên đá cách đỉnh đầu y mấy tấc, mục đích chỉ là muốn dọa y, thế nhưng người ấy đột nhiên tung người lên, viên sỏi trúng vào ót của y kêu lên bốp bốp lăn ra, người ấy ôm đầu kêu: “Tên bổ khoái này thật lợi hại! Ta sẽ chạy đây!” rồi co giò đuổi theo càng nhanh hơn.
Đường Hiểu Lan thấy rất ngạc nhiên, thầm nhủ: “Cao nhân như thế này không thể bỏ qua”. Kêu: “Anh hùng ở trước mặt, tôi xin cam bái hạ phong, xin mời ngừng bước nói chuyện”. Người ấy vẫn không màng đến, tiếp tục chạy về phía trước. Đường Hiểu Lan tức giận nói: “Sao lại có kẻ không thông tình đạt lý đến thế?” rồi đuổi gấp theo về phía trước, chạy được một hồi đã vào khu núi.
Đường Hiểu Lan tính toán cước trình, lúc này đã cách thị trấn Chu Tiên hai ba mươi dặm, chợt nghĩ: “Chả lẽ kẻ này cố ý dụ mình đến đây?” người ấy bước chậm lại, Đường Hiểu Lan đã vào trong sơn cốc, trong sơn cốc phủ đầy tuyết, ánh ngân quang lấp lánh, trong cốc có một căn nhà cỏ, Đường Hiểu Lan dừng lại, không dám tiến bừa vào. Người ấy quay đầu lại, vung tay lên, một vật lướt qua trước mặt chàng, Đường Hiểu Lan giơ tay chụp lấy, té ra đó là thanh kiếm của chàng, người ấy lại vung cả hai tay, ném túi tiền và mảnh kháng bạch ngọc đến, đột nhiên thở dài, lắc đầu nói: “Ngươi đối với chuyện bên ngoài thì coi trọng đến thế, thế mà chẳng biết tiếc thương cho tính mạng của mình, thật đáng buồn! Nếu ngươi đã coi tiền tài quý giá như thế, ta trả lại cho ngươi để ngươi khỏi bám lấy ta như một oan hồn”. Đường Hiểu Lan nghe nói thế thì chưng hửng, nói: “Vãn bối nào dám coi trọng tiền tài, mong tiền bối chỉ điểm lối mê”. Người ấy quay đầu lại nói: “Tiền bối vãn bối cái gì, ta ghét nhất thứ lễ nghĩa ấy. Ta hỏi ngươi, nếu ngươi không quý tiền tài, chẳng qua ta chỉ lấy ba món đồ của ngươi, sao ngươi lại liều mạng đuổi theo ta làm gì”. Đường Hiểu Lan nói: “Vãn bối mạo muội muốn kết giao cùng cao nhân”. Người ấy cười ha hả: “Ngươi nói lời không đúng với lòng, tuy ta mới lấy đồ của ngươi, ngươi làm sao biết ta là cao nhân?” đúng là lúc đầu Đường Hiểu Lan cứ tưởng y là kẻ trộm, chàng cứng họng chẳng nói gì được. Người ấy nói: “Rõ ràng ngươi chẳng nỡ lòng bỏ mấy món đồ này, có đúng không?” Đường Hiểu Lan nói: “Thanh kiếm là do một người bằng hữu tặng, tôi không muốn làm mất, nhưng đuổi theo mới phát hiện người là cao nhân”. Người ấy cắt lời: “Bằng hữu gì? Có phải quan trên của ngươi tặng cho hay không?” Đường Hiểu Lan chưng hửng, người ấy lại cười nói: “Ngươi sợ mất thanh kiếm, Dận Đề hỏi tới sẽ chẳng biết trả lời thế nào, có đúng không? Nếu không thanh kiếm này cũng chẳng phải là báu vật, ngày ấy Du Long kiếm của ngươi đã mất tại sao thanh kiếm này không thể mất?” Đường Hiểu Lan thấy người này biết rõ mọi chuyện của mình, chàng càng thấy cao thâm khó lường. Người ấy cười ha hả: “Người tặng kiếm cho ngươi giờ đây khó giữ thân, nào còn hỏi đến thanh kiếm của ngươi?” Đường Hiểu Lan càng thất kinh, người ấy nói: “Ta cứu mạng ngươi, ngươi còn chưa biết sao?” Đường Hiểu Lan giật thót tim, chẳng hiểu ất giáp gì cả, người ấy nói: “Được, nếu ngươi không tin, ta cho ngươi gặp một người!” Rồi y chúm miệng huýt một tiếng sáo, một người từ trong nhà bước ra, Đường Hiểu Lan vừa nhìn thì lại thất kinh!
Người này chính là Phương Kim Minh, chỉ nghe Phương Kim Minh nói: “Đường huynh, huynh không sao chứ?” Đường Hiểu Lan nói: “Phương huynh, làm sao huynh lại ở đây?” Phương Kim Minh nói: “Huynh hãy vào đây, tôi sẽ từ từ nói cho huynh biết”.
Vào trong ngôi nhà cỏ, Đường Hiểu Lan hỏi họ tên người ấy, người ấy cười ha hả, hai tay đều vươn cả ra, Đường Hiểu Lan vẫn chưa hiểu gì, khi nhìn kỹ lại mới thấy hai tay người ấy khác hẳn người thường, người bình thường mỗi bàn tay có năm ngón tay, còn y mỗi bên lại mọc thêm một ngón, hai tay có cả thảy mười hai ngón, chàng chợt hiểu ra, kêu lên: “Huynh có phải là Thập nhị chỉ diệu thủ thần thâu Trần Đức Thái hay không?” người ấy khẽ gật đầu, cười nói: “Đúng thế”.
Đường Hiểu Lan mở to mắt, càng lúc càng nghi hoặc, tất cả chuyện hôm nay tựa như một cơn mơ.
Té ra Trần Đức Thái là đại cửu của Cam Phụng Trì, cũng có tiếng tăm trên giang hồ. Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Phương Kim Minh và Xa Tịch Tà là tâm phúc của Dận Đề, tại sao Phương Kim Minh lại đi cùng với đại cửu của Cam Phụng Trì, thêm nữa trông có vẻ như bằng hữu thân thiết?” Phương Kim Minh buồn bã nói: “Hôm nay chúa công e rằng khó thoát nạn lớn!” Đường Hiểu Lan lại giật mình, Phương Kim Minh vẫn gọi Dận Đề là chúa công, vậy y và Cam Phụng Trì rõ ràng không cùng một đường, nhưng tại sao lại như thế? Phương Kim Minh nói: “Nếu không phải Trần đại ca dụ huynh đến đây, e rằng mạng huynh đã khó giữ!” Trần Đức Thái đứng một bên nói: “Thế nào, ta không lừa ngươi chứ” Đường Hiểu Lan vái một cái, nói: “Đa tạ Trần đại ca đã cứu mạng, mong được nói rõ”. Trần Đức Thái nói: “Ngươi nên đa tạ Phương đại ca, nếu không có y, ta cũng không biết ngươi đang uống rượu ở ngoài trấn”.
Phương Kim Minh nói: “Huynh có biết Du Long kiếm của huynh đang ở đâu không?” Đường Hiểu Lan nói: “Kiếm của tôi đã bị Liễu Ân đoạt mất, chắc là trong tay Liễu Ân”. Phương Kim Minh nói: “Huynh có biết Liễu Ân đang ở đâu không?” Đường Hiểu Lan nói: “Chẳng phải ở trong cung sao?” bọn năm người của Liễu Ân ở trong trại của Niên Canh Nghiêu, quân của Niên Canh Nghiêu là một cánh khác, nên Đường Hiểu Lan không biết. Phương Kim Minh nói: “Không những Liễu Ân không có trong cung, kiếm của huynh cũng không phải trong tay Liễu Ân, hôm nay Niên Canh Nghiêu cất binh dành quyền chủ soái, thanh kiếm của huynh đã giúp cho y một tay”. Đường Hiểu Lan càng nghe càng lạ, Trần Đức Thái nói: “Liễu Ân ở trong trại Niên Canh Nghiêu, còn Du Long kiếm của huynh đã lọt vào tay Xa Tịch Tà”.
Té ra Phương Kim Minh vốn là một Bang chủ ở Giang Nam, Dận Đề chiêu nạp hiền sĩ, khoảng mười năm trước đã lôi kéo được y. Trước khi y đi theo Dận Đề, đã từng quen biết Cam Phụng Trì nên cũng gặp mặt Trần Đức Thái mấy lần.
Phương Kim Minh nói rõ lại lịch của mình cho Đường Hiểu Lan nghe, sau đó mới bảo: “Chúa công tay nắm binh quyền, Dận Trinh đương nhiên không buông tha, nhưng khi ở trong cung sợ các bối lạc khác nổi cáu nên y không dám ra tay. Nhưng đợi sau khi Niên Canh Nghiêu đoạt được binh quyền sẽ bảo Niên Canh Nghiêu hạ thủ”. Đó vốn là chuyện trong ý liệu của Đường Hiểu Lan nhưng chàng vẫn hỏi: “Làm sao huynh biết?” Phương Kim Minh nói: “Xa Tịch Tà thích thanh bảo kiếm, Liễu Ân đã tặng kiếm của huynh cho y, lại lấy công danh lợi lộc dụ dỗ, bảo y phản bội chúa công. Xa Tịch Tà chấp nhận ngay, Niên Canh Nghiêu lại bảo y đến thuyết phục ta. Ta không chịu phản bội chúa công nhưng đã quen biết Xa Tịch Tà mười năm, cũng không muốn lập tức báo cho chúa công hay, bởi vậy ta dùng kế hoãn binh bảo rằng một hai ngày nữa sẽ trả lời, lẽ ra đó là chuyện của hôm nay. Sau khi các người ra thị trấn, ta vốn muốn đến nhắc nhở chúa công, nào ngờ ngài lại đến chỗ Niên Canh Nghiêu ăn tiệc, ta biết sự việc không xong, một hồi sau có người đến báo rằng Niên Canh Nghiêu đã ra tay”. Trần Đức Thái mỉm cười: “Trong quân của Niên Canh Nghiêu cũng có huynh đệ của chúng ta. Nên Phương đại ca mau chóng chạy ra báo tin này cho ta”.
Té ra Phương Kim Minh võ công tuy cao nhưng rất hồ đồ trong cách lập thân xử thế, coi trọng tình riêng, coi nhẹ đại nghĩa. Dận Đề chỉ dùng ơn nhỏ là đã lôi kéo được y, y vốn muốn lấy tấm lòng quốc sĩ để báo đáp. Nhưng y cũng kính trọng tấm lòng hiệp nghĩa của Cam Phụng Trì, nên một khi nạn lớn kéo tới, người của Cam Phụng Trì bảo y chạy, lại báo với y rằng Trần Nguyên Đức cũng đang ở đây, y cũng chạy theo. Đường Hiểu Lan nghe xong rung giọng hỏi: “Cam đại hiệp có biết việc này không?” Trần Đức Thái nói: “Có lẽ hai ngày nữa Cam thất ca mới đến, nhưng Quan Đông tứ hiệp đã đến”. Số là Cam Phụng Trì sợ nhiều người không tiện nên mới chia thành ba nhóm lên đường. Nhóm thứ nhất là Quan Đông tứ hiệp, nhóm thứ hai là Dương Trọng Anh, Lộ Dân đảm và chàng, nhóm thứ ba là Lữ Tứ Nương cùng Bạch Thái Quan với Ngư Nương. Tuy Cam Phụng Trì chưa đến nhưng chàng quen biết khắp trong thiên hạ, trong quân Niên Canh Nghiêu cũng có tai mắt của chàng nên Đường Hiểu Lan được người ta để mắt tới mà không hề hay biết.
Đường Hiểu Lan nói: “Phương đại ca, sau này huynh tính thế nào?” Phương Kim Minh cười khổ, nói: “Tôi tính đêm nay gặp Xa Tịch Tà rồi mới quyết định”. Đường Hiểu Lan nói: “Cái gì? Huynh còn định gặp Xa Tịch Tà?” Phương Kim Minh nói: “Tôi quen biết y mười năm, thân như huynh đệ, dù sau này tuyệt giao cũng phải nói cho rõ ràng. Vả lại tôi còn phải thăm dò tin tức của chúa công”. Đường Hiểu Lan thầm kêu: “Hồ đồ!”. Nhưng Phương Kim Minh vẫn gọi Dận Đề là chúa công, chàng không tiện khuyên nhủ, chàng chỉ hỏi: “Vậy huynh trở về sao?” Phương Kim Minh nói: “Không, tôi nhờ người hẹn với y sáng sớm mai sẽ gặp tại Tuyết Hồn cốc”. Đường Hiểu Lan nói: “Tuyết Hồn cốc là ở đâu?” Trần Đức Thái mỉm cười: “Chính là sơn cốc bên ngoài”. Đường Hiểu Lan nói: “Chả trách nào cảnh tuyết lại đẹp như thế, quả là xứng với danh”. Rồi lại nói: “Xa Tịch Tà đã bị danh lợi làm mờ mắt, Phương huynh không thể không đề phòng, sáng mai tôi sẽ đi cùng huynh”. Phương Kim Minh xua tay nói: “Tôi chỉ muốn gặp y một mình, người đông không tiện nói chuyện”. Trần Đức Thái mỉm cười, tỏ ý bảo Đường Hiểu Lan đừng nên nhiều lời.
Tin tức truyền ra bảo rằng Niên Canh Nghiêu vâng thánh chỉ, đã thay Dận Đề nắm giữ chức Phủ viễn đại tướng quân, toàn bộ cận vệ quân của Dận Đề bị giải tán, bảy võ quan thân tín nhất cũng bị giết chết, trong đó có ba người cùng Đường Hiểu Lan uống rượu, sau đó đã bị bắt đi ngay ngoài trấn Chu Tiên. Còn Dận Đề và Bác Khắc Đồ đã bị bắt ngay trong buổi tiệc, sống chết thế nào vẫn chưa biết. Phương Kim Minh nghe thế, đấm ngực khóc to.
Hôm sau trời vừa sáng, Phương Kim Minh đã đợi ở ngoài sơn cốc, hoa tuyết bay trong gió, lạnh lẽo rét buốt, Phương Kim Minh đứng trên tảng đá, quay đầu nhìn về phía Đông, lòng nghĩ có phải quá sớm hay không? Chợt nghe một tiếng hú dài vọng tới, Xa Tịch Tà đột nhiên nhảy ra, nói: “Phương huynh đến thật sớm, hai bằng hữu của huynh đâu, sao không tới?” Phương Kim Minh giật mình, thầm nhủ: “Chả lẽ đêm qua y đã đến đây?” nói: “Chúng ta chỉ hẹn gặp riêng nhau, sao có thể gọi thêm người khác?”
Xa Tịch Tà sắc mặt âm trầm, mỉm cười, nói: “Phương huynh có nghĩ đến những lời hôm qua tôi đã nói không?” Phương Kim Minh nói: “Chúa công đối với chúng ta không tệ...” Xa Tịch Tà cắt lời: “Kẻ biết thời thế là trang tuấn kiệt, huynh đệ họ tranh giành với nhau, chẳng lẽ huynh cũng muốn chết theo y?” Phương Kim Minh biến sắc, nói: “Vậy các người đã hại chúa công?” Xa Tịch Tà nói: “Tôi không động thủ”. Phương Kim Minh rơi nước mắt nói: “Không ngờ ngươi lại vong ân phụ nghĩa như thế!” Xa Tịch Tà nói: “Phương huynh yên tâm, chúa công vẫn chưa chết, huynh khóc cái gì?” Phương Kim Minh hỏi: “Niên Canh Nghiêu có chịu thả ngài ra không?” Xa Tịch Tà cười nói: “Hoàng thượng phái Cáp Bố Đà đến đưa y về kinh”. Phương Kim Minh vừa nghe, thầm nhủ: “Dận Trinh bí mật giải ngài về kinh, kết quả vẫn là chết, vả lại Dận Trinh lòng dạ độc ác, chỉ e rằng Dận Đề sẽ chết thảm”. Rồi tức giận nói: “Hoàng thượng khắc nghiệt vô ơn, lẽ nào huynh không sợ?” Xa Tịch Tà cười ha hả.
Phương Kim Minh tức giận nói: “Ngươi cười gì?” Xa Tịch Tà nói: “Chúng ta khác Thập tứ bối lạc, vả lại không tranh ngôi với Hoàng thượng, dù ngài khắc nghiệt vô ơn, có liên quan gì đến chúng ta?” Phương Kim Minh lạnh mình, run giọng nói: “Mười năm quen biết, không ngờ giờ đây mới biết ngươi là kẻ tiểu nhân!” Xa Tịch Tà nhíu mày nói: “Thế nào?” Phương Kim Minh chợt thở dài nói: “Ngươi đi đi! Kẻ quân tử tuyệt giao không cần lên tiếng, coi như giao tình trước đây của chúng ta sẽ xóa sạch, ngươi cứ đi làm quan, ta trở về làm cường đạo. Chỉ cần ngươi không vâng lệnh đến bắt ta, ta sẽ không động thủ với ngươi”. Rồi xoay người toan bỏ đi. Xa Tịch Tà nói: “Khoan đã!” Phương Kim Minh quay đầu lại: “Ngươi muốn thế nào?” Xa Tịch Tà nói: “Mong Phương huynh hãy suy nghĩ lại!” Phương Kim Minh lòng đau như cắt, chỉ cười lạnh rồi quay người. Vừa đi được mấy bước, chợt nghe tiếng cười ha hả vang lên, Phương Kim Minh quay đầu nhìn, chỉ thấy bên dưới xuất hiện hai người, đó là một nhà sư và một lão béo, hai người này là Liễu Ân và Đổng Cự Xuyên. Phương Kim Minh nổi cáu đùng đùng, nói: “Xa Tịch Tà, té ra ngươi đã hẹn người đối phó ta?” Xa Tịch Tà cười lạnh nói: “Ta cần gì phải hẹn người đối phó ngươi, bản lĩnh của ta và ngươi như thế nào đôi bên đều biết, ta chỉ muốn hỏi ngươi thêm một câu, ngươi có muốn theo ta về hay không?” Phương Kim Minh cười lạnh: “Té ra ngươi nhất định phải giữ ta lại?” Đổng Cự Xuyên cười lạnh nói: “Sa thống lĩnh, lần này bọn ta phải xem ông đấy!” Xa Tịch Tà rút soạt thanh kiếm, ánh hào quang loang loáng chiếu xuống tuyết đến chói mắt, đứng giọng nói: “Phương Kim Minh, nếu hôm nay ngươi không chịu theo ta về, ta cũng cắt đứt tình huynh đệ với ngươi!”
Phương Kim Minh nói lớn: “Hay lắm, ngươi hãy chặt đầu ta xuống!” rồi chưởng trái giơ lên hộ trước ngực, quyền phải từ dưới chưởng đấm ra, Xa Tịch Tà cười lạnh một tiếng, xoay người đảo bước, cây Du Long kiếm lóe lên đâm vào be sườn của Phương Kim Minh. Phương Kim Minh quát: “Hay lắm!” rồi lại phóng vọt người lên, thủ pháp nhanh như điện, vỗ thẳng chưởng tới trước ngực của kẻ địch. Xa Tịch Tà quát: “Ngươi muốn chết!” rồi vòng kiếm trở lại chém vào cánh tay của đối phương, Phương Kim Minh đột nhiên bốc người lên cao, chưởng trái đẩy vào cùi chỏ của y, chưởng phải biến thành Cầm Nã móc vào cánh tay của Xa Tịch Tà. Phương Kim Minh biết kiếm thuật của Xa Tịch Tà rất cao cường, nên vừa ra tay đã liều mạng, đánh ra những đòn hung hiểm!
Xa Tịch Tà lâm nguy không loạn, y giật lui người về phía sau hóa giải đòn Cầm Nã của Phương Kim Minh, đẩy chui kiếm về phía trước, điểm vào huyệt Tiếu Yêu trên hông trái của Phương Kim Minh, đó là tuyệt chiêu cứu mạng của y, Phương Kim Minh vội vàng thối lui, sau một tiếng, mũi kiếm của Xa Tịch Tà đã chém lướt qua vai y. Phương Kim Minh quát lớn: “Hôm nay ta liều với ngươi!” rồi phóng vọt người lên, sử dụng mười tám lộ trường quyền luồn qua lách lại trong màn kiếm quang.
Xa Tịch Tà và Phương Kim Minh võ công đều cao cường, một người giỏi quyền thuật, một người có sở trường kiếm pháp, đôi bên tám lạng nửa cân, nhưng Xa Tịch Tà đã có Du Long kiếm, uy lực vô hình tăng lên mấy phần, lại thêm Phương Kim Minh đang nổi cáu, hễ xông lên là liều mạng, khí lực không đủ, đánh được nửa canh giờ, kiếm chiêu của Xa Tịch Tà càng lúc càng nhanh, Phương Kim Minh chỉ có thể chống đỡ, một lát nữa, Phương Kim Minh đã đuối sức, bị màn kiếm quang vây kín.
Đổng Cự Xuyên và Liễu Ân khoanh tay đứng nhìn. Đổng Cự Xuyên nói: “Người này quả nhiên có lòng quy thuận, tặng cây Du Long kiếm cho y cũng đáng”. Liễu Ân nói: “Dù sao cũng là mượn hoa kính Phật, có đáng là gì?” rồi lại nói: “Kiếm pháp của người này cao cường, không biết khinh công của y thế nào?” Đổng Cự Xuyên biết lòng dạ Liễu Ân, cười nói: “Xem ra khinh công cũng không tệ, sau này nếu gặp sư muội của ông, có thể bảo y ra tay”. Té ra Liễu Ân tuy có công lực cao hơn Lữ Tứ Nương, nhưng lại ngại kiếm pháp và khinh công của nàng, mấy lần gặp nhau chỉ đánh ngang tay, không bắt nàng được. Nên muốn nhờ một người kiếm pháp và khinh công cao cường giúp cho mình.