Lúc trời tờ mờ sáng, A Tùng đã ra cửa, tìm từ chợ Đông sang chợ Đoài, ôm đầy tay mũ nỉ ủng da mà vẫn cảm thấy không đủ. Ngẩng đầu thấy mặt trời đã treo cao, lại bỗng hoảng hốt: Có phải Tiết Hoàn đã nhân lúc mình không ở nhà, lén ra đi rồi không? Vội vã chạy về nhà thì thấy Tiết Hoàn đang cầm bút suy ngẫm dưới cửa sổ.
A Tùng lặng lẽ lau mồ hôi, thả nhẹ bước chân đi tới.
Tiết Hoàn nghe thấy động tĩnh, lập tức thu dọn bút mực, gấp giấy viế thư lại, nhét vào lòng, nói: “Ta đi đây.”
“Đợi đã.” A Tùng mở hành trang của hắn ra, bỏ mũ nỉ ủng da vào, chậm rãi vuốt phẳng nếp nhăn trên đó.
Tiết Hoàn đã phải đi từ sớm từ sớm, nhưng không thúc giục nàng, chỉ im lặng chờ đợi bên cạnh.
Trong sự nhẫn nại hiếm hoi ấy dường như để lộ chút ít lưu luyến. A Tùng chậm rì rì sửa sang rương quần áo, tai nghe con ngựa bên ngoài hí lên từng tiếng tựa giục giã, lòng nàng chua xót, nhỏ giọng dỗi hờn: “Chàng không có gì muốn để lại cho em à?”
Có tùy tùng trong quân đến chuyển hành trang, Tiết Hoàn cũng đứng dậy, cười nói: “Đã để lại cả cái nhà cho em rồi, còn đòi hỏi gì nữa?”
Nhà có mỗi bốn bức tường, ai thèm? Một ý nghĩ vụt lóe trong đầu A Tùng, “Ngọc bội tùy thân của chàng đâu?”
“Ta không ngọc bội,” Tiết Hoàn nhấc chuôi đao chìa lưỡi đao loe lóe ánh sáng cho nàng xem, “Chỉ có cái này.”
Gần đây Mạc Bắc không thái bình, trên mũi đao mơ hồ lộ ra mùi khói lửa, chút ít nhu tình chẳng còn sót lại gì. A Tùng quay đầu đi, “Vậy em không cần.” Nhưng lại không cam lòng, ánh mắt rà soát trong rương quần áo, chỉ mong phát hiện một hai món đồ tưởng niệm, chợt nghe tùy tùng bên ngoài gọi tướng quân, nàng vụt thu tay về, đóng rương quần áo, “Chàng đi đi.”
Ánh mắt Tiết Hoàn dừng lại trên mặt A Tùng, dáng vẻ quyết tuyệt lãnh đạm của A Tùng cũng khiến lòng hắn bỗng dưng gợn sóng, ôm chặt A Tùng vào lòng.
A Tùng giãy giãy ỡm ờ mấy cái, thân mình đã mềm nhũn, tựa vào lồng ngực hắn, nàng mong ngóng hỏi: “Chàng sẽ không thực sự đi ba năm năm mới về đâu chứ?”
Tiết Hoàn cụp mắt nhìn nàng, “Em ở một mình có sợ không?”
A Tùng nhíu mày, lớn tiếng đáp: “Em không sợ.” Một đêm không được yên giấc, sắc mặt nàng có phần tiều tụy, nhưng trong mắt chói rực ánh sáng.
Tiết Hoàn cười, mang theo chút khen ngợi và khích lệ, hôn lên đầu mày nàng, “Em phải đề phòng Đàn Đạo Nhất đấy.”
Đó là câu cuối cùng hắn cho A Tùng trước khi đi Mạc Bắc. Sau đó A Tùng thường xuyên hồi tưởng lại, ngoài không rõ ý nghĩa ra, nàng luôn có cảm giác tiếc nuối.
Tiết Hoàn bị điều nhiệm đi Vân Trung là có nguyên do. Ngay sau hôm hắn rời Lạc Dương, tấu chương của thứ sử Sóc Châu được trình lên ngự án, báo người Nhu Nhiên tấn công thành Vân Trung. Từ đầu năm đến nay, tán bộ Nhu Nhiên thường xuyên cướp bóc bách tính biên cảnh Mạc Bác, vì không gây ra quá nhiều thiệt hại về người nên hoàng đế cũng bèn nhắm một mắt mở một mắt, chỉ nhờ khả hãn Nhu Nhiên ước thúc các bộ lạc nhiều hơn.
Trái lại, Phàn Đăng sinh lòng cảnh giác, tấu thỉnh hoàng đế điều binh mã đến Vân Trung trấn thủ. Hiện giờ binh mã còn chưa tới, Vân Trung đã bị đánh chiếm trước.
Hoàng đế rất tức giận, ném cả tấu chương đi, lập tức triệu sứ giả Nhu Nhiên vào cung.
Sứ giả Nhu Nhiên vào cung rồi, hết dập đầu lại thỉnh tội, bất kể hoàng đế vừa đấm vừa xoa thế nào, hắn chỉ tỏ vẻ đau khổ, nói: “Tính tình người Nhu Nhiên ngang ngược, không nghe giáo hóa, nhiều bộ lạc lại chỉ làm theo ý mình, khả hãn cũng không có cách nào.”
Hoàng đế không thể làm gì hơn đành thả hắn rời đi. Đợi trên điện khôi phục yên tĩnh rồi, hoàng đế nhìn bóng lưng sứ giả Nhu Nhiên đi xa, ánh mắt đột ngột lạnh xuống. “Lá mặt lá trái, ta đúng là mù rồi mới gả trưởng công chúa cho lão.” Y nghiến răng nghiến lợi.
Phàn Đăng ngầng ngừng nói: “Lá mặt lá trái? Thần chỉ sợ là mưu đồ đã lâu.”
Hoàng đế gật đầu, “Chân trước vừa sai Tiết Hoàn rời kinh, chân sau người Nhu Nhiên đã đánh Vân Trung, ta cũng thấy là lão cố ý – hừ, muốn ra oai với trẫm ư?”
Lúc này trên điện không có ai, Phàn Đăng suy tư hồi lâu, nói: “Lư phu nhân mất đột ngột, ngoài miệng Úc Lâu Lư không nói gì, trong lòng chỉ e…”
Hoàng đế xua tay, Phàn Đăng ngừng miệng, thăm dò nhìn ra sau ngự án, thấy sắc mặt hoàng đế vô cùng khó coi, cũng chẳng biết là đang nghĩ gì. Phàn Đăng cụp mắt, thầm cười trong lòng.
“Úc Lâu Lư ngấp nghé triều ta đã lâu. Bệ hạ có còn nhớ không, năm xưa lão ta từng có ý định thông gia với Nguyên thị…”
“Nguyên thị đã suy sụp hoàn toàn, dẫu lão có tà tâm cũng một cây làm chẳng nên non.”
Chung quy Phàn Đăng vẫn thận trọng hơn hoàng đế, man binh Ung Châu đánh lâu không lui, khói lửa đã nhiều lần lan đến Kinh Tương, Lạc Dương cũng thường xuyên nhận được chiến báo, thời thế có phần rối ren. “Trước mắt không nên đại động can qua ở Mạc Bắc, bệ hạ hãy tạm nhẫn nhịn đã.”
“Ta biết,” Hoàng đế vẫn không thoải mái, nhíu mày nói, “Vân Trung bây giờ người Nhu Nhiên hoành hành, không biết Tiết Hoàn có ngăn chặn nổi không?”
Đến chỗ thái hậu, hoàng đế kéo A Nô qua, trêu cậu mấy câu, thái hậu hỏi thăm tình hình hoàng hậu, hoàng đế lơ đễnh, bỗng nói: “Dạo này mẫu thân có nhận được tin tức gì từ Trí Dung không?”
Sau khi hòa thân với Nhu Nhiên, ngoại trừ ngày lễ gửi tấu chúc theo lệ, Trí Dung chẳng có tin tức gì thêm, thái hậu mặt ủ mày ê, thở dài: “Cũng chỉ có thư hồi đầu xuân, nói muốn ăn anh đào Bột Hải.”
Chẳng biết từ đâu, hoàng đế thình lình nổi giận, hừ lạnh: “Bảo sao năm nay trong cung chẳng thấy anh đào cống đâu, mẫu thân sai người mang đi Nhu Nhiên hết rồi chứ gì?”
“Có sai người đưa đi một ít,” Thái hậu nghi hoặc, trêu ghẹo hoàng đế, “Lớn thế rồi mà sao cứ như trẻ con thế hả, còn giành anh đào với muội muội?”
Hoàng đế không nhịn nổi nữa, bật một tiếng cười lạnh, ánh mắt sắc bén lia về phía thái hậu, “Mồ hôi nước mắt nhân dân nuôi nó làm công chúa hai mươi năm, bất quá chỉ gả nó cho Úc Lâu Lư thị thôi đã muốn ân đoạn nghĩa tuyệt với con, từ nay chỉ làm hoàng hậu Nhu Nhiên, không làm công chúa Hoàn thị con nữa rồi, làm sao, bây giờ cũng có mặt mũi đòi anh đào của con ăn cơ à?”
Thái hậu kinh hãi, sai người bế A Nô xuống, run giọng nói: “Nó là muội muội ruột của con, hoàng đế nói gì vậy?”
Hoàng đế lạnh lùng đáp: “Con coi nó là muội muội ruột, nó có coi con là huynh trưởng ruột không? Úc Lâu Lư thị dung túng bộ hạ cướp bóc Vân Trung, nó có từng thử khuyên nhủ không?” Cơn giận xộc lên óc, “bốp” một tiếng giòn tan, hoàng đế ném chén trà xuống đất, quát: “Về sau ai còn trao nhận riêng với Trí Dung công chúa, coi như thông đồng với địch!”
Thái hậu rơi lệ, điếng người nói: “Chuyện triều chính, việc gì phải giận cá chém thớt sang nó? Nó chỉ là nữ nhân…”
Sắc mặt hoàng đế tái xanh, hàn ý trong mắt bắn tóe bốn phía, “Nữ nhân? Nữ nhân thì không biết mưu tính, không biết giết người sao?” Y ha ha cười lạnh, gằn từng chữ: “Nữ nhân, người ta thân nhất…” Lời chợt im bặt, hoàng đế phất tay áo bỏ đi.
Trận thịnh nộ này khiến toàn cung câm như hến, hôm sau, hoàng đế lại như đã quên bẵng, sai người tinh tuyển các loại trái cây nho đào mận và dụng cụ tinh xảo do địa phương tiến cống, chất thành mười mấy xe, rầm rộ gửi đi Nhu Nhiên. Hoàng hậu nghe tin, đi tới ngự tiền, thi lễ sơ qua với hoàng đế – thị bụng mang dạ chửa, hành động bất tiện, hoàng đế vội đỡ thị dậy.
Hoàng hậu ngó vẻ mặt bình thản của hoàng đế, mỉm cười nói: “Bệ hạ thánh minh.”
Hoàng đế nói: “Nàng bình an hoài thai, trong cung sắp có thêm một vị hoàng tử hoặc công chúa, chuyện vui như vậy, cũng nên để Trí Dung làm cô mẫu cũng được vui lây.”
Gần đây hoàng đế bộn bề sự vụ, phu thê hiếm có khi nào gần gũi, trong lòng hoàng hậu mềm nhũn, xoa bụng mà cầm lòng không đậu nói: “Là vị hoàng tử thì tốt rồi.”
“Còn đang trong bụng đã quấy nhiễu như thế, nhất định là hoàng tử.” Hoàng đế tinh thần phấn chấn hẳn lên, giọng nói đầy hứng khởi, còn pha thêm chút ân cần, “Dạo này còn bị đá nhiều không?”
“Dạo này ngoan lắm, cuối cùng thiếp cũng được ngủ trọn vẹn mấy đêm.” Hoàng hậu cười đáp, “Đứa bé này cũng biết thương mẹ đấy.”
“Nàng vất vả rồi.” Hoàng đế ôm hoàng hậu vào lòng, dịu dàng an ủi vài câu rồi đi lên triều, thấy chư thần chờ trên điện, sắc mặt nghiêm túc.
Sứ thần Nhu Nhiên mặc Hồ phục để tóc xóa đi tới bái kiến, giọng điệu vô cùng kính cẩn.
Hoàng đế bây giờ cứ trông thấy sứ thần Nhu Nhiên là cảm thấy hắn mặt mày gian giảo, miễn cưỡng nở nụ cười phù phiếm, “Khéo quá, hoa quả của trẫm còn đang trên đường, quốc thư của khả hãn lại tới Lạc Dương trước rồi.”
Sứ thần giở quốc thư Úc Lâu Lư, đọc dài dòng một hồi. Tiết Hoàn dẫn binh đến Vân Châu, nhận lệnh Phàn Đăng, không thảo phạt trắng trợn mà chỉ bắt hơn mười giặc binh làm hại mạng người, người Nhu Nhiên cướp xong tài vật bèn thuận thế lui về Mạc Bắc, Úc Lâu Lư tranh công, hơi có ý dương dương tự đắc, làm hoàng đế nghe mà giận dữ, cuối cùng, đọc xong quốc thư, sứ thần dâng kì trân dị bảo lên, sắc mặt hoàng đế mới dịu xuống.
“Tình thâm nghĩa trọng của khả hãn đối với bệ hạ, những thứ tục vật này sao có thể nói thay cho được?” Sứ thần thản nhiên cười nói, “Trong trướng khả hãn còn có một vị công chúa, trẻ đẹp hơn cả Lư phu nhân khi xưa, hơn nữa từ nhỏ đã ngưỡng mộ Trung Nguyên phồn thịnh, khả hãn bằng lòng gả vị công chúa này cho bệ hạ.”
“Cái gì?” Câu này nói ra, không chỉ chư thần tử kinh ngạc mà đến hoàng đế cũng suýt nhảy dựng lên, “Lại gả một công chúa Nhu Nhiên nữa?”
“Vâng.” Sứ thần nói, “Khả hãn sợ bệ hạ nhớ thương Lư phu nhân đã mất mà đổ bệnh, bằng lòng một lần nữa buông tay con gái yêu.”
Trong cung có nhiều thêm mấy chục mấy trăm nữ nhân nữa cũng chẳng phải vấn đề gì. Nhưng hiện giờ đối với công chúa Nhu Nhiên hoàng đế đã kính tạ xin miễn, y cười khan, “Muội muội ruột của trẫm lấy khả hãn, khả hãn đã là em rể trẫm, trẫm lại cưới công chúa Nhu Nhiên – có phải vai vế loạn quá không? Không hợp lễ.”
Sứ thần không cho là đúng, “Hoàng thất thông gia nào ai để ý đến vai vế? Công chúa Nhu Nhiên tôi đậu khấu niên hoa, bệ hạ thanh xuân cường thịnh, không thể sánh đôi hơn.”
Đậu khấu niên hoa, chẳng phải mới mười hai mười ba thôi à? Hoàng đế nhức đầu, chỉ xua tay, đến thần tử bên dưới cũng cất lời trợ giúp, sứ thần kia lại khăng khăng không tha, nói: “Công chúa đến Lạc Dương, một là để an ủi bệ hạ, hai là để chăm sóc hoàng tử do Lư phu nhân để lại. Nga Hoàng Nữ Anh từ xưa đã là giai thoại, bệ hạ từ chối như vậy, chẳng lẽ là xem thường Nhu Nhiên chúng tôi?”
Giờ khắc này Ung Châu chiến loạn, hoàng đế không rảnh quan tâm phong nguyệt, Úc Lâu Lư biết rõ nên mới dám cứng rắn như vậy – hoàng đế nắm chặt tay vịn, ánh mắt âm u quét qua chư thần tử mỗi người người một sắc mặt trên điện, hồi lâu sau mới miễn cưỡng nói: “Đã là tình nghĩa sâu nặng của khả hãn, vậy giao chuyện này cho Lễ bộ bàn bạc đi.”
“Đa tạ bệ hạ.” Sứ thần kia lại cung kính khom người với chủ sự của Lễ bộ, “Công chúa Nhu Nhiên tôi vào kinh sẽ theo nghi chế nghênh thú hoàng hậu, làm phiền chư vị lo liệu chu đáo.”
“Ngươi nói cái gì?” Ánh mắt hoàng đế trầm xuống, sắc mặt cũng thay đổi.
Sứ thần tựa hồ không chú ý đến cằm hoàng đế bạnh ra, giọng điệu rất đương nhiên, “Tiểu công chúa là nữ nhi khả hãn sủng ái nhất, mẹ nàng đường đường là khả đôn, thân phận chỉ cao hơn chứ không thể thấp hơn Lư phu nhân, Lư phu nhân còn được truy phong làm hoàng hậu, chẳng lẽ tiểu công chúa chỉ xứng làm phu nhân?”
“Thân phận công chúa đương nhiên cao quý, nhưng trẫm đã có một vị hoàng hậu.”
Sứ thần ở Lạc Dương đã lâu, am tường lịch sử của Hoàn thị, lập tức nói: “Thần nghe nói, khi quý triều mới lập quốc, Hồ phong từng thịnh hành, cao hoàng đế từng lập tả hữu hai vị hoàng hậu. Tiểu công chúa cũng không ngại ngang hàng với Châu hoàng hậu,” Sứ thần ngó lơ quần thần trợn mắt nhìn nhau, chỉ cười, “Trí Dung trưởng công chúa vừa đến Nhu Nhiên đã được phong làm hoàng hậu, đây là tình nghĩa khả hãn dành cho bệ hạ – có qua có lại, hai nước thuận hòa, đó chẳng phải là lễ tiết bệ hạ coi trọng nhất sao?”
“Ngươi…” Hiển nhiên sứ thần đã chuẩn bị trước rồi mới đến, hoàng đế dẫu đã sát mép tam bành, cũng chỉ có thể gắng gượng kiềm chế, ngoài cười trong không cười, “Ngươi hiểu lễ nghi Trung Nguyên quá nhỉ. Lập hậu là đại sự, trẫm phải sắp xếp cho kĩ lưỡng đã.”
Sứ thần không dám ấn cổ hoàng đế buộc y gật đầu, cũng bèn thấy tốt liền dừng, nói tạ ơn, rời khỏi điện.
Trên điện lặng như tờ, chúng thần đều đắm chìm trong kinh ngạc, còn chưa biết nên nói gì. Châu Tuần Chi thầm than, tiến lên toan mở miệng, hoàng đế đã giơ tay ngăn lão lại, “Ta biết khanh định nói gì, để ta suy nghĩ đã.”
Quần thần lặng lẽ lui xuống, hộp bảo thạch phỉ thúy sứ thần Nhu Nhiên dâng lên hãy còn tỏa hào quang óng ánh trên bàn, hoàng đế híp mắt, tay lướt qua mặt ngoài lạnh lẽo sắc bén của chúng, cuối cùng thu tay về, đi đến điện hoàng hậu.
Hoàng hậu tựa trên giường phượng, đang nhắm mắt dưỡng thần, thị mang thai sợ nóng, trong tay cung tì cầm quạt lụa, chậm rãi phe phẩy, mép váy tơ mỏng phiêu dật như mây trôi.
“Bệ hạ?” Thị còn chưa mở mắt đã mừng rỡ reo – thị không thể quen thuộc hơn với tiếng bước chân của hoàng đế, “Sao lại trở về?”
Hoàng đế nắm tay hoàng hậu, gần đây thị ngủ yên giấc, hai mắt lại tỏa sáng long lanh, trong con ngươi trong trẻo phản chiếu bóng hình hoàng đế. Hoàng đế nhìn thị, hơi áy náy, “Ta đánh thức nàng à?”
Hoàng hậu lắc đầu, vấn tóc lên, “Thiếp không ngủ,” Thị tủm tỉm nhìn hoàng đế, “Thiếp đang nghĩ xem con chúng ta nên đặt tên là gì.”
Hoàng đế lại cười, hỏi: “Ồ?”
Y rửa tai lắng nghe, hoàng hậu lại hơi thẹn thùng, trầm ngâm chốc lát, thăm dò nhìn hoàng đế, “Bệ hạ, nếu là một công chúa…”
“Thực ra ta cảm thấy nam nữ đều được.” Hoàng đế chân thành nói.
Lông mày hoàng hậu lặng lẽ nhíu lại. Hiển nhiên hoàng đế cũng có tâm sự, hai người cùng trầm mặc chốc lát, hoàng hậu cười nhợt nhạt, nói: “Thiếp đã có nữ nhi, đương nhiên trông ngóng cái thai này là con trai, dưới gối bệ hạ con cái thành đàn, thế nên mới không sốt ruột như thiếp.”
“Úc Lâu Lư lại muốn gửi một vị công chúa đến Lạc Dương, trẫm dự định phong nàng ta làm hoàng hậu.” Hoàng đế hạ quyết tâm, bình tĩnh nói.
Tay hoàng hậu dừng trên bụng, hồi lâu sau mới hồi thần, ánh mắt thị giờ khắc này như bảo thạch sáng rõ, trong sắc sảo cất giấu đề phòng, “Thiếp phạm tội gì mà bệ hạ muốn phế thiếp?”
“Ta không nói muốn phế hậu.” Bị ánh mắt thị soi chiếu, hoàng đế hơi chột dạ khó hiểu.
“Không phế hậu?” Hoàng hậu cười lạnh, “Vậy phong hậu cho công chúa Nhu Nhiên thế nào? Thiếp không hiểu.”
“Cựu triều có tiền lệ tả hữu hoàng hậu, có thể phong công chúa Nhu Nhiên là tả hoàng hậu, vẫn tôn nàng cao hơn…”
Vốn tưởng hoàng đế chỉ hỏi dò, lời này nói ra, rõ ràng là đã quyết định, lòng hoàng hậu chùng xuống, bất chấp thân mình bất tiện, thốt nhiên đẩy hoàng đế ra, “Tả hữu hoàng hậu? Cái lệ cũ họa quốc loạn chính này mà bệ hạ cũng không kiêng kị…”
“Ý trẫm đã quyết.” Hoàng đế không muốn nghe thị nói tiếp, thô bạo ngắt lời.
Hoàng đế hiếm khi nghiêm mặt đanh giọng trước mặt hoàng hậu, hoàng hậu chấn động, không khỏi xoa bụng, đứa con trong bụng cho thị dũng khí vô hình, thị ngẩng cao đầu, cặp mày mảnh quật cường nhíu chặt, “Nếu đã là mệnh lệnh của bệ hạ, vậy thiếp chỉ có thể tòng mệnh, nhưng bệ hạ khỏi cần hao tâm tổn sức phân chia tả hoàng hậu hữu hoàng hậu làm gì, ban cho thiếp một tòa nhà ngoài cung…”
“Đến nàng cũng muốn bức ép ta sao?” Hoàng hậu căm phẫn gào lên.
Hoàng hậu sừng sững bất động, “Thiếp cũng chỉ suy nghĩ cho giang sơn xã tắc của bệ hạ.”
“Bệ hạ,” Cung tì e dè đi vào bẩm báo, “An Quốc công đang ở ngoài điện ạ.”
Hoàng đế trừng hoàng hậu, nhấc chân ra ngoài điện, thấy Châu Tuần Chi lẳng lặng chờ bên dưới thềm ngọc, vẻ mặt trầm tư.
“Trẫm đã nói,” Hoàng đế cũng chẳng ôn hòa với lão, “Trẫm biết khanh muốn nói gì – hoàng hậu sống chết không chịu, nàng sắp lâm bồn, trẫm không muốn chọc giận nàng. Chuyện công chúa Nhu Nhiên ta tạm lấy lệ cho qua, chờ qua khoảng thời gian này hẵng bàn tiếp,” Nhắc đến chuyện này, hoàng đế nhất thời lại nổi giận, “Đàn Quyên thật đúng là kẻ vô dụng! Sao khanh lại tiến cử một người như thế cho trẫm?”
“Thần đến chính là vì chuyện này. Nạn binh hòa Ung Châu kéo dài khó dẹp, thần cảm thấy hơi quái dị, sơ là Nguyên Hồng quấy phá…” Thấy ánh mắt hoàng đế liếc qua, Châu Tuần Chi sợ lại rước cơn giận lôi đình của y, bèn đổi đề tài, “Kì thực thần muốn nói, bệ hạ phong công chúa Nhu Nhiên làm tả hoàng hậu cũng là phù hợp.”
“Ồ?” Hoàng đế vô cùng bất ngờ, “Ta tưởng…”
“Bệ hạ tưởng thần là người coi trọng tư lợi bản thân ư? Giang sơn làm trọng chứ ạ,” Châu Tuần Chi hòa nhã cười, “Chỗ hoàng hậu, thần sẽ đi khuyên giải, bệ hạ đừng lo lắng.”