Sau tiết Sương giáng, trong ngự uyển tiêu điều xơ xác, chỉ có những bụi cúc tía rực chói xán lạn, tươi tốt nhả hương. Tuy thái hậu muôn phần không nỡ, ngày Trí Dung trưởng công chúa đi Nhu Nhiên hòa thân cuối cùng vẫn tới. Thái hậu dậy từ sáng sớm, vừa rơi lệ vừa thay cát phục, cung tì an ủi: “Con cái như chim non vậy, lông cánh cứng cáp rồi thì cũng nên bay khỏi tổ, chẳng lẽ thái hậu muốn giữ điện hạ cả đời?”
Thái hậu cứ nghĩ đến Lạc Dương cách Nhu Nhiên nghìn trùng là không kìm được đau lòng. Hít một hơi thật sâu, thấy A Nô được rất nhiều nhũ mẫu cung tì bao bọc chạy vào điện, bà không khỏi nín khóc mỉm cười, bế A Nô lên đầu gối, thương yêu vỗ về, cười bảo: “Ta chỉ mong A Nô của ta lớn chậm thôi, đừng vội vã lấy vợ chuyển khỏi cung.”
Lư phu nhân qua đời đã nửa năm, A Nô đã lớn, giọng rất vang dội, mồm miệng thì lanh lợi, í ới gọi “bà” làm thái hậu mừng rỡ khôn xiết, đến nhìn Hoa Nùng phu nhân Đàn thị cũng thấy thuận mắt hơn – sau khi A Nô được mang tới chỗ thái hậu nuôi dưỡng, cứ hai, ba ngày là Đàn thị lại vào cung thăm, hai người một lớn một nhỏ ríu ra ríu rít từ sáng đến tối, dần dà, không còn nghe thấy những từ tiếng Nhu Nhiên mơ hồ thốt ra từ miệng A Nô nữa.
Ngoại trừ đôi mắt giống Lư thị, dấu vết Nhu Nhiên trên người A Nô đã lặng lẽ biến mất.
Có lẽ Lư thị qua đời là một việc tốt, nàng ta quá tùy hứng, quá cố chấp với thân phận Nhu Nhiên của mình, mà đối với một hoàng tử nhà Hán, thứ huyết thống ấy có gì đáng kiêu ngạo đâu? Thái hậu đăm chiêu tư lự, nghĩ đến cái chết của Lư thị, lại khó tránh khỏi âu sầu. Ngắm nghía gương mặt yêu kiều rạng rỡ của Đàn thị một hồi, bà thở dài: “Thuở nhỏ cùng nhau lớn lên ở Nhu Nhiên mà sao tính tình lại khác biệt thế cơ chứ? Nó mà cũng nghĩ thoáng được như ngươi thì đã chẳng…”
Lời thái hậu không đầu không đuôi, A Tùng lại hiểu rõ. Nhặt chiếc lá vàng đậu trên mái đầu A Nô xuống, nàng đáp như phủi sạch quan hệ: “Mẫu thân thiếp là người Hán, chỉ ngụ cư ở Nhu Nhiên mấy năm mà thôi.”
Thái hậu lo lắng cho Trí Dung, nghe vậy vội hỏi: “Chẳng biết phong thổ ở Nhu Nhiên thế nào, tính tình khả hãn ra sao?”
A Tùng chẳng có hứng thú gì với việc hồi ức cuộc sống ở Nhu Nhiên khi xưa, nhưng thái hậu sốt ruột, nàng cũng đành vắt hết óc tô son trát phấn một phen cho tính tình khả hãn và phong thổ Nhu Nhiên. Thái hậu nghe xong, tạm thấy được an ủi phần nào, rốt cuộc trên mặt cũng lộ ra đôi nét cười vui. Thấy A Nô bứt rứt khó chịu, bà bèn buông tay, nói: “Ra ngoài chơi đi.” Dõi theo bóng dáng A Tùng và A Nô ra ngoài điện, thái hậu có phần cảm khái, nói với cung tì: “Ta hơi hối hận, đáng ra khi đó hoàng đế muốn nạp nó tiến cung, ta cứ chấp thuận là được. Ta còn có thể sống được mấy năm? Có nó nuôi nấng A Nô, ta cũng yên tâm.”
“Thái hậu sẽ sống lâu trăm tuổi ạ.” Cung tì cười đáp, “Lại nói, chuyện đó… hoàng hậu cũng không chịu.”
Hoàng hậu nhìn thì hiền lương thục đức, kì thực bá đạo ghen tuông, mấy năm qua hoàng đế ít con nối dõi, hồi đầu xuân, thái hậu có ý định thay hoàng đế tuyển nạp vài vị mĩ nhân, sau khi hoàng hậu có thai, đành bất đắc dĩ gác lại. Thái hậu bất mãn với hoàng hậu, khi chuyện phiếm riêng cũng mang ba phần oán trách, “Được rồi, bây giờ nói những chuyện này phỏng có ích gì?”
“Hoàng hậu tới.”
Thái hậu nuốt lại lời phàn nàn, vội giục cung tì: “Đi bảo Đàn thị trông A Nô cho kĩ, đừng để giống lần trước, không cẩn thận đụng phải hoàng hậu rồi lại chọc nó lườm nguýt – nó bây giờ mong manh lắm.”
“Thái hậu yên tâm.” Cung tì đáp, đi ra ngoài điện nghênh hoàng hậu vào.
Sau khi có mang, đa số thời gian hoàng hậu đều nằm trên giường, ít khi lộ diện. Qua ba tháng, ngôi thai ổn định rồi mới thi thoảng xuống đất đi lại. Lâu rồi không gặp, thái hậu giương mắt nhìn, hoàng hậu đẫy đà hơn không ít, cũng đã lộ bụng bầu, oán khí tức khắc tan thành mây khói. Bà thân thiết kéo tay hoàng hậu, nói: “Không cần đa lễ. Ta đã đặc biệt dặn dò không để con phải sang đây, tránh cho thương tâm rồi, sao con vẫn đến?”
Hoàng hậu nói: “Trí Dung đi chuyến này, chẳng biết năm nào mới có thể gặp lại nhau, thiếp nhất định phải đi tiễn muội ấy.”
Thái hậu rơm rớm, “Con có tâm.” Rồi mệnh cung tì tới chỗ Trí Dung xem nàng ta đã ăn bận xong xuôi chưa để qua chào từ biệt.
Hoàng hậu vừa đến là cung tì nội thị qua lại không dứt, điện thái hậu chật chội hơn hẳn, A Tùng dẫn A Nô ra ngoài hiên xem một hồi rồi vào điện, A Nô tiến lên ngoan ngoãn thi lễ với hoàng hậu, gọi: “Điện hạ.”
Hoàng hậu vừa thấy cậu lại gần là lập tức cảnh giác. Tay chậm rãi vuốt ve bụng, lại không chịu liếc A Nô thêm cái nào, thị nói với thái hậu: “Lâu rồi không thấy, đứa bé này nói tiếng Hán sõi quá.”
Thái hậu cười đáp: “Mồm miệng nó nhanh lắm, trước đây chỉ là không có ai dạy mà thôi.”
Hoàng hậu cười lạnh nhạt, không tiếp lời, chỉ cúi đầu nghịch móng tay như hành vót của mình – mới rồi vô ý liếc nhìn mà như trông thấy đôi mắt lãnh ngạo của Lư thị, hoàng hậu không khỏi giật nảy mình, móng tay nhọn bấm vào lòng bàn tay đỏ bầm, sắc mặt cũng càng khó coi hơn. Hoàng hậu không thích A Nô, nhưng vướng bận hàm dưỡng nên vẫn ít nhiều che giấu mấy phần, gần đây lại thường xuyên tỏ rõ thái độ ghét bỏ trên mặt, thái hậu thấy rõ, nhất thời không vui, nén giận hỏi: “Sao tinh thần hoàng hậu lại không tốt thế, ban đêm còn mơ thấy ác mộng không?”
Hoàng hậu đáp: “Gần đây đỡ rồi ạ.”
“Có chuyện gì thì nói với hoàng đế, đừng giấu mãi trong lòng. Ôm tâm sự hao tâm tổn sức, bởi vậy mới ngủ không ngon.”
“Vâng.” Hoàng hậu thoáng khom người với thái hậu.
Thái hậu bực mình, quay sang vẫy tay với A Nô, “Lại đây, tổ mẫu ôm con, lát nữa Trí Dung đến, con cũng đi tiễn cô mẫu con nhé.”
Thái hậu và A Nô một hỏi một đáp, cười nói liên miên. Không bao lâu sau thì nghe thấy tiếng nhạc lành vang lên, cờ biếc như mây tràn lên thềm cung, thái hậu giật mình, run giọng nói: “Đến rồi.” không khỏi đứng dậy, buông A Nô ra. A Tùng vượt qua dòng người ồ ạt, dắt A Nô ra góc, kiễng chân nhìn lại, thấy Trí Dung mặc cát phục hoa lệ dày nặng, chậm rãi khấu đầu với thái hậu rồi ngẩng mặt, mỉm cười nói: “Mẹ, con phải đi rồi.”
Thái hậu khóc không thành tiếng, níu kéo Trí Dung không chịu buông tay, mắt thấy sắp lỡ giờ lành, nữ quan chưởng lễ liên tiếp nhắc nhở, thái hậu chỉ vào hoàng hậu, nói: “Hoàng hậu đặc biệt tới tiễn con này.” Trí Dung ngó lơ hoàng hậu, chỉ lau nước mắt thay thái hậu, kiêu ngạo nói: “Úc Lâu Lư thị hùng cứ Mạc Bắc, khả hãn càng là nam nhi anh dũng Trung Nguyên khó gặp, mối hôn sự này không thể tốt đẹp hơn, sao mẹ phải đau lòng?”
Thái hậu chỉ sợ nàng ta nói mát, trong lòng khôn kham, vội nắm tay Trí Dung, bảo nữ quan: “Dẫn công chúa đi bái kiến hoàng đế rỗi hẵng lên đường.”
Trí Dung chợt biến sắc, vung phắt tay ra, lạnh nhạt nói: “Bệ hạ bộn bề trăm việc, nào có thời gian rảnh rỗi như thế?”
Thái hậu hết lời khuyên can, Trí Dung vẫn không chịu đi bái kiến hoàng đế, thái hậu biết Trí Dung ghi hận hoàng đế trong lòng, vô cùng bất đắc dĩ, “Con đừng trách nó, nó là hoàng đế…”
Trí Dung cười nói: “Con hiểu, bệ hạ có rất nhiều cái thân bất do kỉ. Con là một tiểu nữ tử, vốn chỉ muốn tận hiếu dưới gối mẫu thân, nhưng chuyến này đi Nhu Nhiên, không chỉ là nữ nhân của Úc Lâu Lư thị mà còn là hoàng hậu Nhu Nhiên, về sau cũng đành phải quên đi mình từng có phụ mẫu huynh đệ, có điều, chỉ mong đến một ngày nọ, bệ hạ đừng trách tội con.”
Hoàng hậu càng nghe càng thấy không ổn, cau mày nói: “Trí Dung…”
“A Nô, con ngoan,” Trí Dung băng qua đám đông, dịu dàng nắm tay A Nô, nhìn thẳng vào đôi mắt đen láy của cậu, đôi mắt mang huyết mạch của Úc Lâu Lư thị ngơ ngác, “Sau này con lớn có còn nhớ cô mẫu này không?”
A Nô ngây thơ gật đầu, lớn tiếng đáp: “Nhớ ạ.”
“Ngoan lắm.” Một giọt nước mắt trượt xuống từ khóe mắt Trí Dung, xoay lưng đi lau thật nhanh, nàng ta ưỡn thẳng lưng, “Đi thôi.”
Trí Dung đi rất quyết tuyệt, thái hậu lại dứt lòng không đặng, tiễn hết đoạn đường này sang đoạn đường khác. Đi đến Xương Hạp Môn, bách quan triều đình lẳng lặng chờ ở Thái Cực Điện phía bắc, quan viên Lễ bộ đi ra ngoài điện, lần lượt tuyên đọc chiếu thư hòa thân bằng tiếng Hán và tiếng Nhu Nhiên. Thái hậu nghe mà sốt ruột, chỉ về phía nghi vệ công chúa đang đứng nghiêm, hỏi: “Ai đưa dâu? Ta có lời muốn dặn dò hắn.”
Tiết Hoàn được nội thị dẫn đến bái kiến thái hậu. Hắn cũng bận lễ phục mới toanh, trên đai lưng đồng mạ vàng một bên treo đao, một bên giắt kiếm, oai phong ngời ngời. Thái hậu thấy hắn trẻ tuổi thì không yên lòng, dặn đi dặn lại: “Ngươi phải hộ tống công chúa đến Nhu Nhiên thật cẩn thận đấy, nó mà bị thương một cọng tóc thôi, ta cũng sẽ hỏi tội ngươi!”
Tiết Hoàn đáp: “Vâng.” Rồi lui sang một bên, nhìn trong ngoài Xương Hạp Môn hoa cung như gấm, lụa màu như mây, chợt nghe trong cung quyến thét lên một tiếng kinh hãi, Tiết Hoàn đưa mắt sang, thấy đám cung tì ôm chặt lấy thái hậu bị ngất rời đi, chỉ có A Tùng còn đang dắt A Nô, cẩn thận từng bước, chậm rãi đi ở cuối hàng.
Hoàng đế mở miệng muốn Hoa Nùng phu nhân tái giá với Tiết Hoàn, triều thần đều ôm thái độ hóng hớt trêu tức, Tiết Hoàn và A Tùng thì lại hiếm khi chạm mặt, thi thoảng gặp nhau ở cửa cung, vẻ mặt Tiết Hoàn đều nhàn nhạt, A Tùng vô cùng thất vọng, mặt cũng lạnh tanh.
Chuyến này đi Nhu Nhiên, qua lại cũng phải mất hai tháng, hôn kì ấn định vào xuân tới, chẳng biết có kịp không? Hoàng đế cố ý chứ gì? A Tùng mặt không biểu cảm, trong lòng lại ưu tư không vui, ngắm bóng dáng Trí Dung rực rỡ phiêu diêu, nàng thất thần một chốc. A Nô thấy nàng không di chuyển, dùng tiếng Nhu Nhiên giục: “A Na Côi, đi thôi.”
“Xuỵt.” Ngón tay A Tùng dựng trước môi, trừng mắt với A Nô, “Vội cái gì…” Nàng nhỏ giọng lầm bầm, khóe mắt liếc về phía Tiết Hoàn.
Tiết Hoàn không để ý đến nàng, đi thẳng vào đội ngũ thị vệ.
A Tùng hừ lạnh, kéo A Nô đi vào trong cung.
Cuối cùng cũng hoàn tất tuyên đọc chiếu thư hòa thân, Trí Dung dẫn sứ giả Nhu Nhiên đi ra khỏi đám người đông nghịt, hai tay nâng chiếu thư, cúi người bái dài về phía Thái Cực Điện, sau đó giẫm lên tấm thảm màu, từng bước đi về phía xa giá. Tiết Hoàn cũng ra hiệu lên đường với bọn thị vệ, lên ngựa, vừa kéo dây cương trang trí đầy tơ gấm lên thì thấy Trí Dung dừng bước trước màn sa tung bay, quay đầu nhìn về phía triều thần.
“Điện hạ?” Tiết Hoàn giục ngựa tiến lại, khẽ giọng nhắc nhở Trí Dung.
Trí Dung nhẹ nhàng vén màn sa lên, cúi người vào xe. “Mời Đàn trưởng sử lại đây nói chuyện.” Cách lớp lụa mỏng, có thể nghe thấy rõ ràng giọng nàng ta.
Quan viên chưởng lễ không biết phải làm thế nào, đưa mắt sang nhìn Tiết Hoàn. Tiết Hoàn thầm cười, chỉ coi như không nghe thấy, quay đầu ngựa lại, đi sang ven đường lẳng lặng chờ, nhìn Đàn Đạo Nhất bị nữ quan dẫn đến trước xa giá của công chúa dưới hàng trăm cặp mắt đổ dồn, cúi đầu đối đáp vài câu. Trí Dung vén màn sa lên, chàng thoáng do dự rồi cũng lên xe.
Trong xe rộng rãi, trên đệm gấm thêu là lớp lớp váy áo phức tạp của Trí Dung. Nàng ta ngồi ngay ngắn trong xe, mắt mày được họa diễm lệ vô song, nhìn Đàn Đạo Nhất chẳng mảy may né tránh.
Gần đây Đàn Đạo Nhất đương thịnh thánh quyến, vừa từ tế tửu thăng lên lục phẩm trưởng sử1, mặc thanh bào, đội ô quan, gương mặt không màng hơn thua mà bội phần thanh tú. Trí Dung cười gượng gạo, “Đàn trưởng sử, trước khi đi, ta mới nhớ ra còn chưa kịp chúc mừng anh.”
1 Trưởng sử là chức quan phụ tá cho cấp quan lớn hơn, có thể hiểu tương đương với trợ lí trưởng hoặc thư kí trưởng.
Ngày giỗ của Đàn Tế vừa qua, Đàn Đạo Nhất lập tức thành hôn cùng Tạ thị, hiện giờ mới chưa tới nửa tháng. Nghe vậy, chàng hé cười – nụ cười này rất đỗi bình thản, pha lẫn chút ơ hờ, không phải kiểu cười nhu tình mật ý, vừa lòng thỏa nguyện, điều này khiến lòng dạ Trí Dung thoải mái hơn phần nào – chàng mỉm cười nói: “Đa tạ điện hạ, thần cũng xin chúc mừng điện hạ.”
Giọng Trí Dung nghe hơi the thé, “Ta có gì để mà chúc mừng?”
“Tính tình điện hạ hào sảng, ở trong thâm cung không cảm thấy bị đè nén sao? Khả hãn Nhu Nhiên tuổi già hoa mắt ù tai, điện hạ đến Nhu Nhiên rồi, dưới chân là đất đai bao la bát ngát, trong tay là quyền bính chí cao vô thượng, bao nhiêu nam nhân cầu mong điều này mà chẳng được?”
Trí Dung sửng sốt, “Anh cũng vậy ư?”
“Thần cũng là nam nhân mà,” Đàn Đạo Nhất uyển chuyển nói, ôn nhu nhìn Trí Dung, chàng khẽ thở dài: “Điện hạ rời xa quê hương, nhất định phải bảo trọng…” Chàng cười khổ một tiếng, “Hiện giờ, điện hạ và thần đồng bệnh tương liên rồi.”
Nghe tiếng than thở này, nước mắt Trí Dung nín nhịn mấy tháng nay suýt thì lăn xuống. Nàng ta ngẩng mặt, sẵng giọng: “Không phải vừa mới chúc mừng ta sao? Lại thở dài cái gì?”
“Vâng, thần hồ đồ rồi.”
Trí Dung cười nói: “Ta gọi anh tới nói chuyện trước mặt bao người như vậy, truyền vào tai phu nhân anh, chỉ e nàng ta sẽ hận ta.”
“Sao có thể? Điện hạ lo hão rồi.”
“Nàng ta ắt sẽ hận ta, như vậy là tốt nhất, chí ít Lạc Dương sẽ có thêm một người nhớ tới ta.”
“Lạc Dương có rất nhiều người nhớ điện hạ.”
“Anh cũng vậy sao?”
Đàn Đạo Nhất cười, không tỏ ý kiến, lấy từ trong tay áo ra một chiếc túi gấm nhỏ, đặt vào tay Trí Dung, “Cái này xin tặng điện hạ.”
Trí Dung vừa mừng vừa sợ, “Đây là cái gì?” Mở túi gấm ra, bên trong ấy vậy mà lại là một nắm đất vàng.
“Đây là cố thổ của thần, lúc rời khỏi Kiến Khang, thần đã lấy một túi đất từ phế tích chùa Thiên Bảo, một năm nay không rời thân, hiện giờ tặng lại cho điện hạ, điện hạ đến Nhu Nhiên rồi, chỉ cần có cố thổ bên người, sẽ không cảm thấy cô khổ.”
Trí Dung nắm chặt túi gấm trong lòng bàn tay, giọt lệ trên hàng mi lấp lóe, “Đa tạ anh.”
Đàn Đạo Nhất im lặng nhìn nàng ta, chắp tay thi lễ, đi ra khỏi xe.
Xa giá khởi động, nhạc mừng rộn rã, trong gió lạnh xào xạc, đội ngũ đưa dâu ngoằn ngoèo lên bắc trong ánh mắt đưa tiễn của bách quan. Bách tính chen chúc hóng xem ven đường, di chuyển gian nan. Tiết Hoàn dứt khoát buông cương ngựa, để ý động tĩnh bốn phía, thỉnh thoảng đưa mắt liếc nhìn bóng dáng Đàn Đạo Nhất, bỗng thấy A Tùng chen qua đám đông, đi đến trước mặt Đàn Đạo Nhất.
Tầm mắt Tiết Hoàn khựng lại, ghìm chặt dây cương, lại thấy A Tùng dùng khuỷu tay đẩy Đàn Đạo Nhất lảo đảo, cố sức chen ra khỏi đám người, nghển cổ về phía này. Tiết Hoàn bật cười, ánh mắt chạm vào đôi mắt nôn nóng của A Tùng, chợt thấy phỉ dẻ táo khô rơi đầy trời như mưa, hoa cung tiền đồng nện mạnh lên đầu lên mặt người, mọi người ồ lên, vội xông ra tranh giành tiền đồng.
Bọn thị vệ nhân cơ hội, vội vã giục ngựa rảo chân. Tiết Hoàn bị xua đi, ngoái đầu nhìn lại, A Tùng bị mắc kẹt tại chỗ, bờ môi thoáng mấp máy, không nói nên lời.
Tiết Hoàn không khỏi nhoẻn cười khẽ khàng, vừa khéo có quả táo khô lăn xuống vạt áo, hắn nhặt lên, từ xa ném vào lòng nàng, đoạn phóng ngựa chạy theo đội ngũ của Trí Dung.