Toàn cung im phăng phắc. Phàn Đăng không dung túng cho binh lính đốt phá cướp giết như phản quân Nam Dự Châu, vừa trải qua vô số trận ác chiến, ông ta bước vài bước trên điện, ăn nói rất hòa nhã, tựa như một vị khách phương xa đầy đủ lễ nghĩa, không dính máu tanh. “Nghe nói trong cung điện Nam triều chồng vàng chất ngọc, đi loan về phượng, đến cái bô ngự dụng cũng khảm mã não, lại bị phản quân giày xéo thành thế này, quả thực đáng tiếc. Nếu bọn ta đến sớm hơn một chút thì đã chẳng khiến bách tính Kiến Khang sinh linh đồ thán.”
Ông ta than thở một hồi, thấy Đạo Nhất vô cung nổi bật giữa đám cung nhân co ro rụt rè, ánh trăng mới mọc chiếu vào mặt chàng, đôi mắt chàng lạnh lùng nhìn thẳng ông ta chẳng hề né tránh, Phàn Đăng không khỏi thắc mắc, chỉ vào Đạo Nhất hỏi: “Đây là vị cao nhân nào?”
Tiết Hoàn đáp: “Vị này là Đạo Nhất sư phụ chùa Thiên Bảo.”
Phàn Đăng “ồ” một tiếng, “Hình như đã nghe thấy cái tên này ở đâu…”
“Là ái tử của Đàn thị trung ạ,” Tiết Hoàn nhìn hai người A Tùng, cười cười chẳng rõ mang ý gì, “Cũng là… tôn huynh của Hoa Nùng phu nhân.”
“Thì ra là vậy.” Phàn Đăng trầm ngâm, vốn định ra oai, song nhịn xuống, liếc Đạo Nhất như có điều suy tư, nhưng rồi, ông ta nói với A Tùng: “Thủ lĩnh phản quân Nam Dự Châu đã đền tội, phu nhân không cần trốn tránh nữa, mời về Hoa Lâm Bồ cho.”
A Tùng lập tức lắc đầu, náu mình bên cạnh Đàn Đạo Nhất.
Phàn Đăng bỗng bừng tỉnh đại ngộ, cười bảo: “Phu nhân đừng sợ, thì ra ngài còn chưa biết, Nguyên Tu tự trói xin hàng ở Nam Sơn, bệ hạ chẳng những không giáng tội mà còn hạ chiếu phong ngài ấy làm Thọ Dương công. Tại hạ đặc biệt tới đây là để đón Thọ Dương công và gia quyến đi Lạc Dương. Chuyến này đi Lạc Dương xa xôi ngàn dặm, phu nhân nên trở về Hoa Lâm Bồ nghỉ ngơi thật tốt đặng còn lên đường.”
Đây là một vị tướng thống lĩnh thiên quân vạn mã, dẫu đang cười ha hả, khi nói chuyện vẫn lộ rõ vẻ ngang tàng không thể nghi ngờ. A Tùng nắm chặt tay Đàn Đạo Nhất – trong tay áo, tay chàng cũng chẳng chút hơi ấm, lẳng lặng mặc nàng nắm. A Tùng sung túc dũng khí, lớn tiếng đáp: “Ta không đi Lạc Dương.”
Phàn Đăng lắc đầu, “Bệ hạ đặc biệt dặn dò, phải mời bằng được Hoa Nùng phu nhân, thần sao dám trái lệnh?”
Dường như chỉ trong một đêm, đại danh Hoa Nùng phu nhân đã truyền khắp thiên hạ. Nếu là bình thường, A Tùng khẳng định đã đắc ý không thốt nên lời, giờ khắc này nghe thấy hai chữ phu nhân, nàng chỉ thấy trong lòng run sợ. Nàng càng lắc đầu kiên định hơn, “Ta không thân chẳng quen ai ở Lạc Dương, đi làm gì?”
Phàn Đăng tuy sốt ruột, thế nhưng phụng thánh chỉ, cũng chẳng dám quá càn rỡ, ông ta nhẫn nhịn cười nói: “Hoa Nùng phu nhân, sao có thể nói là không thân chẳng quen? Bệ hạ vô cùng kính trọng Thọ Dương công, huống hồ là một mĩ nhân như phu nhân?” Ông ta cười đưa mắt nhìn tường đổ vách nứt chung quanh, “Nhà Hán xây chín lớp thành lũy ở Lạc Dương, đường ngự cầu nổi trải mấy dặm. Lạc Dương chúng ta lan đài quế hộ, rường cột chạm trổ, cũng chẳng kém gì Kiến Khang – tại hạ còn cho rằng vượt Kiến Khang một bậc. Nghe nói nguyên hậu của Thọ Dương công đã bị phế truất từ lâu, chiêu dung cũng bị phản quân bắt đi, về sau muôn vàn vinh sủng chỉ thuộc về phu nhân, ngài không đi, chẳng lẽ muốn làm phế phi không người hỏi han trong đống phế tích này?”
Lòng A Tùng loạn như đay rối, không khỏi ngẩng đầu lên tìm kiếm ánh mắt Đạo Nhất – từ lúc Phàn Đăng vào đây đến giờ, chàng chỉ đứng lặng bên cạnh nàng, không nói một lời. Ánh lửa tụ quanh Phàn Đăng xua tan ánh trăng như sương, đằng sau ánh mắt giữ kín như bưng của chàng, có một sự trầm mặc quái gở rợn người, sắp bị ánh lửa đốt cạn. Trong ánh nhìn tĩnh lặng khiến người ta ngột ngạt, A Tùng gom dũng khí, thử hỏi chàng, “Huynh có muốn đi Lạc Dương không?”
Mắt Đạo Nhất lóe lên nụ cười nhạo sắc bén như đã sớm biết sẽ là như vậy. Chàng lắc đầu, kiên quyết bứt khỏi tay A Tùng, lùi ra sau một bước, khách khí nói với nàng: “Phu nhân đi đường cẩn trọng.”
“Muội không đi!” A Tùng bị Đạo Nhất hất tay ra, tức thì hoảng hốt, nàng nóng ruột đến độ muốn moi tim ra cho chàng, “Huynh không đi, muội cũng không đi.”
“Nếu Đạo Nhất sư phụ giá lâm Lạc Dương, bệ hạ nhất định cũng sẽ tôn làm khách quý.” Phàn Đăng không để lỡ cơ hội mở miệng, “Ta nhớ ra rồi – hóa ra mấy cuốn kinh Phật thịnh hành ở Lạc Dương gần đây đều là bản dịch của cậu, sư phụ còn trẻ tuổi, phật pháp đã tinh thâm, đến thái hậu và chư vị phi tần trong cung cũng khen không dứt miệng.”
“Tướng quân không cần phải hao tâm tổn trí vì tiểu tăng.” Đạo Nhất uyển chuyển khước từ lời mời của Phàn Đăng.
“Ồ, vậy mời sư phụ cứ tự nhiên.” Phàn Đăng lễ độ lạ thường với Đạo Nhất.
“Ta cũng không đi, các người đi đi.” A Tùng quả quyết nói.
Phàn Đăng ngộ ra được chút bất thường từ tranh chấp giữa hai huynh muội. Ông ta cười ha hả, nói: “Nghe nói phu nhân chỉ là bé gái mồ côi được Đàn thị trung nhận nuôi, cần gì phải bịn rịn không rời với Kiến Khang như thế?” Ông ta nói với Đạo Nhất, ý tứ sâu xa: “Sư phụ cũng khuyên phu nhân mấy câu đi. Bệ hạ chính miệng chỉ đích danh Hoa Nùng phu nhân… Đại tội kháng chỉ, ngay cả tại hạ cũng gánh không nổi.”
Ông ta chẳng phí lời với A Tùng nữa, vung tay lên, dẫn đầu bọn thị vệ đi ra ngoài cửa cung chờ.
A Tùng đứng ngơ ngác một khắc thấy, thấy bóng hình đứng cô độc trong ánh trăng của Đạo Nhất cử động, nàng cuống quít níu tay áo chàng, “Huynh đi dâu?”
“Xuất cung.”
A Tùng nghẹn ngào hỏi: “Còn muội?”
Đạo Nhất cụp mắt xuống nhìn nàng, sắc mặt chàng lạnh nhạt khắc kỉ, “Tùy cô.”
Trái tim bàng hoàng của A Tùng bỗng rơi thụp xuống, nàng nhìn chàng như cầu xin giúp đỡ, “Muội không muốn đi.”
Đạo Nhất lắc đầu, “Phàn Đăng phụng chỉ đến đây, chỉ e không cho phép cô không đi.”
Sự thờ ơ chẳng mảy may che giấu này như lưỡi dao cắt xẻo lòng A Tùng, nàng bất chấp muốn cướp kiếm của chàng, “Phàn Đăng là cái thá gì? Hoàng đế Bắc triều là cái thá gì? Không phải kiếm thuật của huynh vô địch thiên hạ ư? Tại sao huynh không đi giết chúng?” Thanh kiếm nắm chắc trong tay Đạo Nhất, nàng nghiến răng nghiến lợi, lại chẳng thể lay chuyển được chàng, bèn đẩy mạnh chàng mấy cái, “Huynh bằng lòng liều mạng vì một Viên phu nhân chẳng liên can gì, liều mạng vì một hoàng hậu vô dụng, vậy mà huynh không bằng lòng nhấc một ngón tay vì muội…”
Đạo Nhất sừng sững bất động, giọng chàng lạnh nhạt vô cùng, “Cô không xứng.”
“Cái gì?” A Tùng không thể tin nổi.
Đạo Nhất nhắc lại: “Cô không xứng để ta liều mạng.”
A Tùng nhảy dựng lên túm vạt áo chàng, nàng hận chàng muốn chết, hận đến không tiếc dùng lời lẽ ác độc nhất, ngôn từ khắc nghiệt nhất để mắng chàng, “Huynh là đồ hèn nhát tham sống sợ chết, huynh sợ Tiết Hoàn, sợ Phàn Đăng, huynh sợ hoàng đế Bắc triều muốn lấy mạng huynh, đến Nguyên Tu huynh cũng chẳng bằng! Đẩy nữ nhân của mình vào hố lửa, huynh mà cũng là nam nhân ư, muội nhổ vào! Huynh không dám đi thì đưa kiếm đây cho muội, muội không giết được Phàn Đăng, muội sẽ tự sát…”
Đạo Nhất chẳng những không bị kích động mà còn cười một tiếng, “Dẫu cả thiên hạ lật đổ, cô sao có thể tự sát? Cô chết rồi làm sao mà đi chiêm ngưỡng Lạc Dương lan đài quế hộ, rường cột chạm trổ, hưởng thụ ngàn vạn vinh sủng cho được? Cô thật sự không muốn đi, có chết ta cũng sẽ ngăn cản Phàn Đăng. Nếu cô đã muốn đi, việc gì ta phải làm điều thừa thãi, cản trở tiền đồ của cô, uổng công chọc cô sau này lại oán hận?”
“Huynh nói bừa!” Giọng A Tùng chói gắt vang vọng Huyền Phố, “Muội không đi, muội không đi! Có chết muội cũng không đi!”
“Cô đi cùng Phàn Đăng đi,” Đạo Nhất kéo tay áo ra khỏi tay nàng, còn ôn hòa trấn an nàng một câu, “Phàn Đăng có ý chỉ của Bắc đế, sẽ không bạc đãi cô, cô đừng sợ.”
A Tùng đuổi theo chàng hai bước, cố nén giọt lệ chỉ chực trào bờ mi, “Huynh đi đâu?” Đạo Nhất không trả lời, nàng lại the thé hét: “Huynh mà bỏ mặc muội, muội sẽ đi Lạc Dương, huynh đừng có hối hận!”
Đạo Nhất thoáng khựng lại rồi băng qua hành lang nhà vu, đi ra ngoài cửa cung.
“Đạo Nhất sư phụ,” Phàn Đăng được thị vệ vây quanh, đang dạo bước trên đường cung, thấy Đạo Nhất đi ra, ông ta không ngăn cản, ánh mắt liếc qua bội kiếm của Đạo Nhất, ông ta như vỡ lẽ điều gì, “Định đi Bành Thành à?”
“Tướng quân,” Đạo Nhất dừng lại, cúi đầu với vị tướng Bắc triều nắm trọng quyền này, “Tướng quân quan sát thật tinh tế.”
“Chớ đi,” Phàn Đăng đi đi lại lại chốc lát, “Đàn thị trung thà chết không hàng ở Bành Thành, bị tướng tá bên cạnh sát hại, bệ hạ cảm động trước lòng trung nghĩa của ông ấy, truy phong làm Võ An công, đặc lệnh hậu táng.”
Vẻ mặt Đạo Nhất cứng lại trong nháy mắt, trong ánh lửa, gương mặt còn trắng hơn tuyết.
Phàn Đăng cũng có chút thông cảm với chàng, gật đầu nói: “Chờ quan tài đến Kiến Khang, ta sẽ phái người mời cậu ra ngoài thành nghênh đón.”
“Đa tạ.” Hồi lâu sau, trong miệng Đạo Nhất chậm rãi phun ra hai chữ.
Dõi mắt nhìn Đạo Nhất rời đi, Phàn Đăng thở phào, nói với tùy tùng: “Mời Hoa Nùng phu nhân sang Hoa Lâm Bồ.”
Nhân mã của Phàn Đăng rời đi, trong cung lập tức sôi trào. Trải qua trận tàn phá của phản quân, đối mặt với binh sĩ Bắc triều trật tự nghiêm ngặt, các cung nhân lại cảm thấy hân hoan trong đờ đẫn, ai nấy lĩnh mệnh đi thu dọn cung thất cho đám người Phàn Đăng trọ lại. Nửa đêm canh ba, các phi tần và công chúa đều được truyền lên điện, Phàn Đăng chọn mấy người trẻ trung xinh đẹp, ra lệnh cùng áp giải theo Thọ Dương công đi Lạc Dương.
Chuyến này có Tiết Hoàn điều phối cấm quân trong ứng ngoài hợp, Phàn Đăng mới có thể đánh vào Kiến Khang dễ như ăn bánh vậy, ông ta không tiếc lời khen ngợi Tiết Hoàn, “Lần này Nam chinh, bệ hạ luận công ban thưởng, cậu đứng nhất chắc rồi.”
Tiết Hoàn vội đáp: “Không dám ạ.”
Hắn bận rộn mấy ngày đêm, toàn thân dính nhớp mồ hồi và máu, vết thương trên trán vô cùng bắt mắt. Phàn Đăng cười ngó hắn, tiểu tốt vô danh ngày xưa đã sắp một bước lên mây, bước lên triều đình, Phàn Đăng cũng rất muốn lung lạc, “Cậu rời Lạc Dương mấy năm rồi? Mấy năm qua chắc vất vả lắm nhỉ?”
“Tám năm rồi ạ,” Tiết Hoàn cười khổ, những năm nay không một đêm nào dám chợp mắt, thần kinh căng thẳng tột cùng đột ngột giãn lỏng, trái lại có phần không thoải mái. Mùi vị trong đó sao có thể dốc bầu tâm sự với Phàn Đăng? Hắn cười nói: “Bệ hạ và tướng quân anh minh thần võ, thuộc hạ vẫn luôn khắc ghi trong lòng, chưa từng thấy sợ.”
“Mũi chân đi trên lưỡi dao, sao có thể không thấy sợ?” Phàn Đăng cất giọng cười to, “Cậu còn trẻ mà ra dáng ông cụ non ghê.”
Tiết Hoàn cười đáp: “Lời thuộc hạ đều là lời gan ruột.”
Có binh sĩ đi vào hỏi nên xử trí phế hậu Vương thị thế nào. Phàn Đăng trầm ngâm nói: “Tuy là phế hậu nhưng theo ý bệ hạ có vẻ như muốn lập trưởng tử của Nguyên Tu là Nguyên Hồng, thị là mẹ đẻ của Nguyên Hồng, không thể bạc đãi được. Nghe nói thị bị phản quân bắt được, làm nhục một phen rất thảm?”
Tiết Hoàn trầm mặc một chớp mắt, đáp: “Vâng ạ.”
Nguyên Tu tàn bạo, Phàn Đăng cũng chẳng có bao nhiêu lòng thương xót với phi tần của y, “Kiến Khang toàn hạng ngu dốt thì Nam triều sao lại chẳng bại?” Ông ta giễu cợt.
Tiết Hoàn đáp lời Phàn Đăng lấy lệ vài câu, cáo từ rời đi. Lúc đi ngang qua Huyền Phố, hắn thoáng chần chừ, đi vào trắc điện Phàn Đăng sắp xếp cho Vương thị, trong điện chỉ có vỏn vẹn vài cung tì, bị Tiết Hoàn xua lui.
Vương thị đã tỉnh táo lại khỏi cơn hoảng loạn sau khi bị phản quân làm nhục, nhưng tinh thần uể oải suy sụp. Thị xõa tóc nằm trên gối, mặt vàng như nến. Nhiều năm không gặp lại Tiết Hoàn, trong mắt thị có chút căm hờn, ngoài ra còn có nghi hoặc, “Anh… hàng Bắc triều rồi?”
Đối mặt với người đàn bà đáng thương này, sắc mặt Tiết Hoàn mang chút ôn hòa khi xưa. Biết Vương thị băn khoăn nhất hai đứa con của mình, hắn nói: “Bệ hạ có ý để đại điện hạ kế vị, đại công chúa cũng bình an vô sự.”
Vương thị gật đầu mỉm cười, một giọt lệ xuôi khóe mắt trượt xuống. Thấy Tiết Hoàn không lạnh lùng nữa, thị lại nhen nhóm chút hi vọng, nắm chặt tay hắn, cầu khẩn: “Ta không còn mặt mũi ở lại Kiến Khang nữa, đợi Hồng Nhi kế vị rồi, người khác sẽ chỉ nhạo báng mẹ nó… Anh dẫn ta đi đi, nể tình chúng ta khi xưa.” Sợ Tiết Hoàn không chịu, thị vội nói: “Nếu không phải khi xưa ta tiến cử anh vào phủ thái tử, sao anh có được ngày hôm nay? Cầu xin anh, coi như báo ân, dẫn ta đi đi.”
Tiết Hoàn bất đắc dĩ nói: “Bản thân tôi còn hành tẩu trên lưỡi đao, ăn bữa nay lo bữa mai, ngài theo tôi cũng chẳng thể sống yên ổn được.”
Vương thị cho rằng hắn chỉ đang lấy cớ chối từ, vội chống cánh tay nhỏm dậy, đôi môi run rẩy ghé vào tai hắn, “Hôm ấy ta tìm được quốc tỉ của Nguyên Tu trong tẩm điện của hắn, năm xưa Nguyên thị nam độ, mang theo quốc tỉ truyền đời từ Lạc Dương đi, khẳng định Hoàn Doãn cũng muốn tìm quốc tỉ về. Trước khi gặp phản quân, ta đã ném nó vào giếng nước ngoài chính điện, không ai biết cả. Anh dẫn ta đi, dâng quốc tỉ cho Hoàn Doãn mà mưu cầu một tiền đồ.”
Tiết Hoàn hỏi: “Chính vì tìm cái này mà ngài gặp phải phản quân?”
Vương thị coi hắn như thân cây nổi, nắm chặt trong tay, “Đạo Nhất hỏi ta, ta cũng không nói cho nó biết. Chỉ mình anh biết, anh nhận lấy ân tình này của ta, cứu ta một mạng đi.”
Trong mắt Vương thị chất chứa cầu khẩn, Tiết Hoàn đẩy thị ra, lắc đầu nói: “Tôi không thể mang ngài đi được.”
Mắt Vương thị lập tức dại ra, thị ngậm nước mắt nằm về gối, lẩm bẩm: “Anh như vậy là bức ta phải chết…”
“Ngài coi như tôi có lỗi với ngài đi.” Tiết Hoàn đứng dậy ra khỏi điện trong tiếng lẩm bẩm thì thào của Vương thị, gọi hai thị vệ tâm phúc, lệnh họ xuống giếng vớt quốc tỉ, đợi ở Huyền Phố một lúc, chợt nghe có người hét lên trong điện, hắn hơi kinh hãi, vội quay trở vào trắc điện.
Màn che hai bên giường rủ xuống, Vương thị búi cao tóc, nghiêm chỉnh mặc lễ phục hoàng hậu, lẳng lặng nằm trên gối, mặt thoa phấn trắng môi điểm son, toát lên hơi thở chết chóc.
Thị tự sát đã lâu, đã tắt thở.
Thị mới hơn ba mươi, da thịt lạnh lẽo hãy còn mịn màng. Bên dưới lớp trang điểm rực rỡ, gương mặt tỏa ra vẻ đẹp tĩnh lặng an tường.
Tiết Hoàn trầm mặc ngồi hồi lâu, tay chạm nhẹ lên mặt thị. Tiếng cung tì hoảng hốt đi lại bên cạnh đánh thức hắn, hắn thu tay về, nói: “Bẩm báo với Phàn tướng quân, chôn bà ấy đi.”
Vì là phế hậu nên Phàn Đăng cũng chẳng tốn công tốn sức, chỉ nói đã biết rồi sai người khâm liệm Vương thị, qua loa hạ táng. Tiết Hoàn lĩnh mệnh, buông Vương thị ra, nhân bóng đêm đơn độc loanh quanh ngoài điện, chợt nghe tiếng bước chân, thấy hai thị vệ trở về, dâng một bọc nhiễu vang lên như nhặt được chí bảo.
Ngón tay Tiết Hoàn gỡ nhiễu vàng ra, trông thấy một khối ngọc tỉ to bằng bàn tay, óng ánh dưới ánh trăng, tỏa ra màu sắc trơn bóng. Đây là vật Lạc Dương lạc mất khi sơn hà vỡ nát, nam bắc phân chia, tượng trưng cho quyền hành chí cao nhất thống thiên hạ.
Tiết Hoàn cầm ngọc tỉ trong tay ngắm nghía một lúc, nghe thấy đằng sau có động tĩnh, là cung nhân dùng chăn đệm bọc Vương thị, khiêng ra ngoài điện.
“Đợi đã.” Hắn bảo mọi người lui xuống, vén chăn lên, bọc ngọc tỉ trong nhiễu vàng đặt trước ngực Vương thị, lễ phục hoàng hậu dày nặng che lấp hình dáng ngọc tỉ. Nhìn một hồi, hắn đậy lại khuôn mặt Vương thị, nhìn cung nhân dời thị vào quan tài, dung nhan người chết và chút ánh sáng mơ hồ ấy biến mất rốt ráo trong bóng tối.
“Phế hậu Vương thị tự sát.” Cung tì trộm báo với A Tùng.
Động tác A Tùng khựng lại, nhìn khuôn mặt trong gương đồng. Tuổi nàng miễn cưỡng lắm mới bằng một nửa Vương thị, mắt mày tươi tắn quyến rũ, sắc môi đỏ tựa ráng chiều – Sao lại phải chết? Vì sợ đi Lạc Dương à? Nàng bình tĩnh cầm than chì lên, tỉ mỉ tỉa nét lông mày đen như lông quạ.
Còn lâu ta mới chết. Ta không sợ ai cả. Nàng thầm căn dặn mình, sườn mặt soi trong gương đồng, gảy rèm mi dài mảnh.
Xoay mặt đi, khóe mắt liếc thấy Tiết Hoàn.
Hắn đứng cạnh cửa, nhìn nàng như cười như không. “Nữ nhân trong cung ai cũng đang khóc, chắc cũng chỉ có mình cô còn tâm trạng mà tô son điểm phấn.”
A Tùng ngẩng mặt, nhìn bóng dáng Tiết Hoàn dần lại gần trong gương đồng.
Dưới Phàn Đăng, cũng chỉ mình hắn có thể đi lại tự nhiên trong cung cấm, nom hắn rất ư mở mày mở mặt, đắc ý vênh vang.
A Tùng khinh thường nguýt hắn, “Việc gì phải khóc?”
Tiết Hoàn nói: “Nữ nhân bị vứt bỏ hẳn đều sẽ khóc mấy trận.”
Tiết Hoàn xấu xa cố ý xát muối vào vết thương của nàng, A Tùng sầm mặt, căm hận phỉ nhổ hắn.
Tiết Hoàn đã tới trước mặt A Tùng, nắm cằm nàng, cưỡng ép nàng quay mặt lại, thong dong quan sát nàng.
A Tùng bị ánh mắt sáng rực của hắn nhìn mà chột dạ – đúng như lời hắn nói, nàng đã khóc, ban nãy còn khóc lớn một trận đứt gan đứt ruột, trôi hết cả phấn son, đành phải trát lại hết tầng này đến tầng khác, che đi mí mắt sưng đỏ. “Nhìn cái gì?” Nàng cười khẩy, hất tay Tiết Hoàn ra, quay mặt lại nhìn gương đồng, thì thầm một tiếng: “Đồ rợ bắc.”
Giống như những nữ nhân khác trong cung, A Tùng có lòng e sợ rất sâu với thành Lạc Dương mà nàng hoàn toàn mù tịt. Tiết Hoàn bật cười, “Trách ai được? Trước khi Phàn tướng quân vào thành, ta đã định mang cô đi theo ta rồi, cô không chịu, còn lấy oán trả ơn.” Hắn nghiến răng sờ sờ vết thương trên trán.
“Xí.” A Tùng cầm son môi, khinh bỉ nói: “Sao ta phải theo anh? Anh cũng…”
Chữ “xứng” còn chưa ra khỏi miệng, nàng đã bị Tiết Hoàn nắm gáy, đột ngột ngậm lấy môi lưỡi. Con người hắn vừa thô bạo vừa sôi nổi, A Tùng bị giữ chặt hai tay đè ra đất, chỉ cảm thấy sắp bị khí thế ngập đầu nuốt chửng, cuống đến độ mặt đỏ đến tận mang tai. Ra sức đá mấy cước đẩy bật Tiết Hoàn ra, nàng lăn sang bên cạnh tránh, hai mắt nhìn chằm chằm hắn như muốn phun lửa.
Tiết Hoàn lau vết son đỏ tươi bên môi, ổn định lại hơi thở, hắn cười nói: “Mồm ta có thối không?”
A Tùng đã sớm quên mình từng mắng hắn mồm thối, nàng nổi cơn tam bành vớ lấy chì kẻ mày ném vào đầu Tiết Hoàn, “Ngươi còn không cút đi, ta sẽ gọi Phàn Đăng tới!”
“Phu nhân bớt giận.” Tiết Hoàn lười biếng cáo lỗi, rời khỏi Hoa Lâm Bồ.
Thọ Dương công được đón từ hành cung Tử Tuyền ở Nam Sơn về Kiến Khang, còn chưa kịp tiến cung đã bị Phàn Đăng thúc giục phải về Lạc Dương, đi theo còn có trọng thần văn võ, cung tần con cái, ai nấy đều lấy tay áo che trước mặt, xấu hổ không thôi, chỉ mình Hoa Nùng phu nhân diễm lệ xuất chúng, ngẩng đầu ưỡn ngực lên xe ngựa.
Đoàn người thành hàng, uốn lượn mấy dặm, cờ xí phấp phới chậm rãi đi ra ngoài thành. A Tùng đang ngẩn người trong xe, chợt nghe trong tiếng bách tính than khóc nghẹn ngào ven đường có âm Phạn xa xôi văng vẳng nơi chân trời, nàng hỏi cung tì: “Đang phát tang ai vậy?”
“Võ An công ạ.” Cung tì nói, “Phàn tướng quân còn hỏi, phu nhân có muốn dừng xe đôi chút, thăm viếng Đàn gia không?”
A Tùng ngây người một lúc mới nhớ ra Võ An công là Đàn Tế. Nàng vén mành xe, thấy dưới vầng dương mùa thu đỏ ối như quả hồng, cờ trắng tựa mây trôi phần phật nơi chân trời, trong đám người mặc tang phục đay trắng, áo huyền của Đạo Nhất như nhuốm nét tiêu điều của ý thu. Chàng đi đến trước ngựa Phàn Đăng, chắp tay hành lễ cúi chào ông ta.
Uyển chuyển từ chối thịnh tình muốn đích thân phúng viếng của Phàn Đăng, chàng cười nhàn nhạt, lui sang rìa đường, lẫn vào bách tính Kiến Khang, nhìn đoàn người ngựa của Thọ Dương công từ từ lên bắc.
A Tùng gắt gao dõi mắt nhìn chàng, đợi đến khi xe sắp chạy tới bên cạnh Đạo Nhất thì thấy mặt chàng hơi nghiêng nghiêng như muốn quay đi, A Tùng nhanh chóng buông mành xuống, náu lại vào xe.
Sao mình khờ vậy chứ, đến một giọt lệ hắn còn chẳng rơi. A Tùng lặng lẽ nghĩ, nàng ngơ ngẩn tựa vào thành xe.