[1] Đầm rồng: Từ tĩnh lược của thành ngữ “đầm rồng hang hổ”, ý chỉ nơi nguy hiểm, nước sôi lửa bỏng.
Trong miếu Hỏa Thần trấn An Bình, nơi dừng chân nghỉ ngơi của đội ngũ Bao đại nhân, đêm nay đèn đuốc sáng trưng. Nếu là bình thường thì nhất định Bao đại nhân đang ngồi trong chính sảnh phê duyệt công văn, nhưng hôm nay thì ngược lại với mọi khi, Bao đại nhân, Công Tôn tiên sinh còn có Kim Kiền đều tập trung trong sảnh bên, vì muốn quan sát thương thế của Triển Chiêu. Cũng may là bốn người Vương Triều, Mã Hán, Trương Long, Triệu Hổ đều không ở trong miếu, bằng không mật độ dân số trong gian phòng nhỏ bé này sẽ quá tải mất.
Triển Chiêu ngồi trên một cái ghế đẩu bằng gỗ, bị ba người vây quanh cứ theo như lời Công Tôn tiên sinh mà cởi áo, lộ ra vô số những vết sẹo của các vết thương lớn nhỏ chằng chịt trên làn da màu đồng.
Bao đại nhân và Công Tôn tiên sinh cúi đầu nhìn, không khỏi chấn động, đồng thời hít vào một hơi khí lạnh.
Chỉ thấy trên bả vai cánh tay phải, có một vết thương dài khoảng hai tấc, miệng vết thương đã kết vảy, da thịt xung quanh đã dần chuyển sang màu hồng, cho thấy vết thương đã lành, không còn gì đáng ngại, chỉ là mới nhìn qua vết thương đã thấy vô cùng ghê người. Không vì điều gì khác mà chính là hai bên mép da chỗ miệng vết thương bị bảy, tám sợi chỉ đen khâu lại, nhìn lướt qua thì tựa như có con rết nhiều chân nằm trên bả vai Triển Chiêu, mà phần đuôi của “con rết”, còn thắt một cái nơ bướm bất nhã nữa chứ.
Triển Chiêu nghe thấy tiếng hai người hít vào, tim không khỏi nảy lên một cái.
Ngẫm lại, Nam hiệp Triển Chiêu vốn xuất thân giang hồ, sau khi đi theo Bao đại nhân thì ngày ngày vất vả, chuyện bị thương xảy ra như cơm bữa, nhưng khi Công Tôn tiên sinh chữa trị thì tiếng lắc đầu thở dài có, trách giận càu nhàu có, chỉ chưa từng nghe tiếng hít khí lạnh bao giờ. Nhớ lại lúc trước khi Kim Kiền khâu miệng vết thương lại, thủ pháp thực có chút quái dị, hơn nữa miệng vết thương còn nằm ngay bả vai, muốn quan sát cũng không tiện cho lắm, chỉ cảm thấy miệng vết thương dần ngưng chảy máu, thế nên Triển Chiêu không để ý đến. Nhưng lúc này đây Nam hiệp đường đường như vậy cũng có chút dao động quay người nhìn Công Tôn tiên sinh.
Chỉ thấy ánh mắt Công Tôn tiên sinh sáng rực lên, nhìn chằm chằm vào vết thương của Triển Chiêu, vẻ như đã đi vào cõi thần tiên rồi.
Bao đại nhân cũng nhíu chặt mày, muốn nói gì nhưng rồi lại thôi.
Qua một lúc lâu, Công Tôn tiên sinh mới nghiêm mặt hỏi: “Triển hộ vệ, vết thương của hộ vệ được Kim bổ khoái chữa trị phải không?”.
Triển Chiêu chậm rãi gật đầu.
“Kim bổ khoái!”, đột nhiên Công Tôn tiên sinh quát lên một tiếng rất to.
Kim Kiền thừa dịp mọi người đang ngẩn ra liền rón rén đi vài bước lén ra cửa, một chân vừa bước qua ngưỡng cửa, sắp sửa chuồn được, thình lình nghe thấy tiếng quát như sư tử Hà Đông của Công Tôn tiên sinh, chân liền run lên, suýt chút nữa thì ngã nhào xuống đất.
“Công… Công Tôn tiên sinh… có… có gì sai bảo?”.
“Vết thương của Triển hộ vệ có thật là do ngươi chữa trị không?”
“Cứ… cứ xem là vậy…”
Kim Kiền vừa hàm hồ đáp, vừa quan sát thần sắc thâm trầm của Công Tôn tiên sinh phía đối diện, tim đập như trống: Mèn ơi, con mèo kia cũng được xem như là thủ đô của cả thời kỳ Bắc Tống… không thì cũng được coi là Idol hàng đầu của cả nước, nay mình khâu bả vai của Tiểu Miêu thành cái hình dạng chết dở kia, làm hỏng cả cái “vai vàng ngọc” của Tiểu Miêu, như thế há chẳng phải là đã bôi nhọ Khai Phong phủ sao? Nhìn sắc mặc Công Tôn Trúc Tử đi, tám phần là muốn tìm mình tính sổ rồi.
Nghĩ đến đây, Kim Kiền liền hít sâu một hơi, vội trưng ra vẻ mặt tươi cười hòa nhã nói: “Công Tôn tiên sinh, khi đó thời gian cấp bách, thuộc hạ nhất thời lo lắng, khó tránh khỏi lỡ tay… Nhưng thuộc hạ cũng biết sửa sai, đã thắt một cái nơ bướm rất đẹp ở trên đó rồi, kỳ thực nếu nhìn tổng thể sẽ thấy rất có ý vị…”.
Công Tôn tiên sinh đứng phắt dậy, bước nhanh về phía Kim Kiền, hai mắt sáng như bó đuốc, nhìn chằm chằm khiến Kim Kiền dựng cả tóc gáy.
“Kim bổ khoái, phương pháp chữa trị vết thương bằng cách khâu da thịt lại ngươi biết được từ đâu?”
Hả?
Kim Kiền có chút khó hiểu, nghĩ bụng: Cái tay Công Tôn Trúc Tử này bị sao vậy, tựa hồ như rất có hứng thú với tạo hình con rết trên bả vai Tiểu Miêu, lại rất quan tâm đến lai lịch của con rết này. Đợi đã, phương pháp khâu vết thương tuy phổ biến ở thời hiện đại, nhưng biết đâu ở thời cổ đại nóquá sức cao siêu? Có điều phương pháp này được ghi rất rõ ràng trong y thư của sư phụ…
Ôi chao!
Kim Kiền đột nhiên hiểu ra, không khỏi kinh hoàng thất sắc.
Phương pháp này mình đọc trong y thư do “Y Tiên” truyền lại, kết hợp với tri thức thời hiện đại, nên cũng chẳng nghĩ nhiều, chỉ cảm thấy đó là chuyện bình thường, nhưng nay gặp phải Công Tôn Trúc Tử, nhìn thần sắc căng thẳng của ông ta mà nói, tám phần là phương pháp trị liệu khâu vết thương này còn chưa thông dụng ở thời đại này rồi.
Nói như thế thì thân phận đệ tử đích truyền của hai lão sư phụ vô lương kia há chẳng phải sẽ bị lộ sao?
Đại sự không tốt rồi!
Kim Kiền nhất thời túa mồ hôi lạnh đầy đầu, ngập ngừng hồi lâu mới phun ra một câu:
“Thực ra trước kia thuộc hạ đã từng thấy một lão đại phu dùng phương pháp như thế này trị thương cứu người, thế cho nên…”
Chẳng biết câu trả lời nửa thật nửa giả này có an toàn qua cửa không nữa?
Hai mắt Công Tôn tiên sinh sáng lên, hỏi dồn: “Lão đại phu? Tướng mạo như thế nào? Ngươi gặp được khi nào?”.
“Là một lão đầu râu bạc trắng, ở trên một ngọn núi, một năm trước đây…”, bị Công Tôn tiên sinh nhìn chằm chằm khiến cả người không tự nhiên, bất giác Kim Kiền thốt ra đến phân nửa sự thật.
Công Tôn tiên sinh bước lên một bước, lại nói: “Có phải nơi đó gần Vân Ẩn sơn không?”.
Vân Ẩn sơn? Sao nghe quen quen thế nhỉ? Chậc chậc, đấy chẳng phải hang ổ của hai lão sư phụ vô lương kia ư? Công Tôn tiên sinh xuất thân từ đặc công hay sao ấy, thế nào mà ngay cả tên núi cũng biết?
Kim Kiền chỉ cảm thấy sau lưng mồ hôi chảy đầm đìa, cố cuối gập xuống một góc chín mươi độ, hàm hồ đáp: “Thuộc… thuộc hạ không rõ ngọn núi đó tên là gì…”.
Công Tôn tiên sinh nghe vậy, khuôn mặt thoáng hiện lên vẻ tiếc nuối.
Bao đại nhân và Triển Chiêu thấy thế đều không hiểu.
Bao đại nhân hỏi: “Công Tôn tiên sinh, lẽ nào vết thương có gì không ổn sao?”.
Công Tôn tiên sinh lắc đầu nói: “Không phải là có gì không ổn. Kim bổ khoái đã dùng kim khâu miệng vết thương lại, cách trị liệu này tuy khiến người ta không thể tưởng tượng được, nhưng lại là phương cách thần kỳ. Đệ tử đã từng đọc trong sách y nhưng chưa từng được nhìn thấy. Tương truyền trên giang hồ chỉ có một người có thể vận dụng phương pháp này”.
Triển Chiêu nghe đến đây, liền sáng tỏ, tiếp lời: “Người tiên sinh nói có phải là ‘Y Tiên’, người mà mười năm trước đã tuyệt tích giang hồ cùng ‘Độc Thánh’?”.
Công Tôn tiên sinh gật đầu.
Bao đại nhân hỏi: “ ‘Y Tiên’ là người như thế nào?”.
Triển Chiêu đáp tiếp: “Bẩm đại nhân, ‘Y Tiên’ là người có y thuật đứng đầu trên giang hồ, giang hồ từng truyền câu: Diêm La bắt người, trước hỏi Y Tiên”.
Công Tôn tiên sinh vuốt râu nói: “Y thuật của ‘Y Tiên’ xuất thần nhập hóa, chỉ là lão nhân gia người đã thoái ẩn giang hồ, lại chẳng có truyền nhân để lại, khiến người ta phải tiếc nuối không thôi”, rồi quay đầu nói với Kim Kiền: “Nói vậy lão nhân một năm trước Kim bổ khoái gặp chính là người này. Kim bổ khoái may mắn gặp được người một lần, lại học được thuật trị thương thật là may mắn ba đời”.
Kim Kiền nghe đến đây mới biết thân phận mình tạm thời chưa bị lộ, không khỏi thở phào một cái. Nhưng ngẫm kỹ, lại thấy vừa tức vừa buồn cười, nghĩ bụng: Chỉ mới gặp mặt ‘Y Tiên’ một lần đã là may mắn ba đời, vậy mình ở cạnh hai lão sư phụ vô lương kia những một năm, há chẳng phải là đã dùng hết vận may của mấy kiếp rồi à? Hức hức, thảo nào từ khi mình bắt đầu xuống núi liền đâm đầu vào vận xui luôn… đáng ghét…
Bao đại nhân nghe xong, gương mặt mang vẻ vui mừng nói: “Nói như thế thì, thương thế của Triển hộ vệ đã không còn gì đáng ngại nữa?”.
Công Tôn tiên sinh khoác áo ngoài lên cho Triển Chiêu, vừa thu dọn hộp thuốc vừa trả lời: “Đã sớm không có gì đáng ngại rồi. Y thuật của Kim bổ khoái thực khiến học trò bội phục”.
Triển Chiêu nghe xong những lời này, cũng thấy an tâm, cài áo xong xuôi đâu đến đấy liền quay người thi lễ với Kim Kiền: “Triễn mỗ đa tạ Kim huynh”.
Kim Kiền vội đáp lễ, cười khan hai tiếng.
Công Tôn tiên sinh xách hòm thuốc lên, nói với Triển Chiêu: “Triển hộ vệ, tuy vết thương của Triển hộ vệ đã không có gì đáng ngại nữa, nhưng mấy ngày nay Triển hộ vệ mệt nhọc quá độ, nên nghỉ ngơi sớm một chút, lấy lại tinh thần”.
Triển Chiêu nghe vậy vội đứng lên nói: “Nhưng còn vụ án của Trương Tụng Đức thuộc hạ vẫn chưa đem kết quả điều tra bẩm báo với đại nhân…”.
“Triển hộ vệ…”, Bao đại nhân bất đắc dĩ nói: “Hãy nghỉ ngơi trước đã, sáng sớm mai hãy bẩm báo lại tình hình vụ án cho bản phủ”.
“… Thuộc hạ tuân lệnh”.
Những lời này lọt vào tai Kim Kiền thực như âm thanh của Đấng cứu thế, liền vội vàng khom người thi lễ, lui ra ngoài, đi thẳng đến sảnh bên, nơi nghỉ ngơi của nha dịch.
Nhưng vừa đi được hai bước, chợt nghe tiếng Công Tôn tiên sinh gọi phía sau: “Kim bổ khoái, xin hãy dừng bước”.
Nhất thời thân hình Kim Kiền thẳng đơ, quay đầu lại một cách cứng nhắc, hỏi: “Công Tôn tiên sinh, có gì chỉ giáo?”.
Lẽ nào mình lại để lộ sơ hở gì rồi?
Công Tôn tiên sinh bước đến trước mặt Kim Kiền, khẽ mỉm cười.
Nụ cười này giống như nho phong lướt qua mặt[1] , khiến toàn thân Kim Kiền phát run.
[1] Nguyên văn “Nho phong phất diện, vốn câu phải là xuân phong phất diện có nghĩa là gió xuân lướt qua mặt, nhưng ở đây Kim Kiền lại thay bằng từ “Nho” vừa để chỉ phong thái thư sinh của Công Tôn tiên sinh vừa để chỉ sự gian xảo của họ Công Tôn.
Có người nói, lúc Công Tôn tiên sinh mỉm cười hoặc là lúc vụ án được sáng tỏ, hoặc là lúc đang tính kế, hoặc là lúc có kẻ sắp gặp xui xẻo.
Tình huống hiện giờ, theo như Kim Kiền phán đoán, tám phần là giả thiết thứ ba.
“Kim bổ khoái, tại hạ còn một chuyện không hiểu, mong Kim bổ khoái tạm thời dừng bước giải đáp cho tại hạ”.
Da mặt Kim Kiền liền nhăn nhúm lại, vội vàng nói: “Công Tôn tiên sinh, thuộc hạ đi theo Triển đại nhân một mạch tới đây, cũng đã ba ngày ba đêm không chợp mắt rồi”.
Công Tôn Trúc Tử, ngài ít nhiều cũng nên có chút tinh thần chủ nghĩa nhân đạo chứ!
Công Tôn tiên sinh lại mỉm cười, tiếp tục nói: “Câu hỏi này cũng không mất nhiều thời gian”.
Kim Kiền nhìn khuôn mặt mỉm cười của Công Tôn tiên sinh, tự biết bản thân không địch lại, lời đã ra đến miệng đành nuốt vào.
“… Công Tôn tiên sinh, xin mời hỏi”.
“Kim bổ khoái, phương pháp dùng kim khâu miệng vết thương lại là do bổ khoái học được từ ‘Y Tiên’ sao?”
“…”
“Tại sao lại phải khâu miệng vết thương thành hình con rết, tại hạ đã nghĩ rất lâu nhưng vẫn không thẩm thấu được sự ảo diệu trong đó”.
“Khụ khụ… cái này… kỳ thực… cái đó… phương pháp khâu vết thương như thế là vì… thuộc hạ cũng không biết, chỉ là khi ấy lão đại phu khâu như vậy, thuộc hạ bắt chước theo, trông bầu mà vẽ gáo vậy thôi”. Sư phụ, xin lỗi người nhé!
Công Tôn tiên sinh tư lự giây lát, khẽ lắc đầu, rồi như ngộ ra điều gì nói: “Thủ pháp của ‘Y Tiên’ quả thực huyền diệu, đạo lý trong đó… tại hạ kém cỏi quá… Kim bổ khoái, thời gian cũng không còn sớm nữa, bổ khoái nghỉ ngơi đi”.
Kim Kiền nghe xong, vội vàng thi lễ rồi lui xuống, tới khi đi xa rồi mới lén quay lại nhìn, chỉ thấy Công Tôn tiên sinh đang vừa đi vừa chau mày suy nghĩ, thần thái rất chuyên chú.
Chậc chậc, Công Tôn Trúc Tử, xin lỗi ngài nhé…
Hôm sau khi trời vừa sáng tỏ, Kim Kiền đã bị người ta lôi từ trong chăn dậy, mang theo đôi mắt gấu mèo, bị mấy nha dịch kéo vào trong sảnh chính của miếu Hỏa Thần.
Trong sảnh chính, Bao đại nhân đang ngồi chính giữa sảnh, Công Tôn tiên sinh thì đứng bên trái; còn Triển Chiêu vận quang bào đỏ thì thẳng tắp đứng bên phải, tinh thần sáng láng, chẳng mảy may trông chút thần sắc mệt mỏi nào; Vương Triều, Mã Hán thì đứng phía sau Triển Chiêu.
Mà chính giữa sảnh chính còn có hai người nữa đứng, một người trong đó chính là Hạng Phú, thích khách tối qua đã cải tà quy chính, mà người đứng bên cạnh hắn, tướng mạo cùng hình dáng có vài phần giống Hạng Phú, là Hạng Phổ, kẻ đã phóng mai hoa tiêu trước đó. Nhìn vẻ mặt cung kính của hắn thực giống y đúc dáng vẻ của Hạng Phú, liền biết hắn đã quy thuận Khai Phong phủ rồi.
Kim Kiền lấy lại tinh thần, khom người thi lễ.
Bao đại nhân hỏi: “Kim bổ khoái, Triển hộ vệ vừa đem những chuyện xảy ra khi hai người tra án ở Trần Châu nhất nhất bẩm báo lại rồi, siêu sắc thuốc cùng tờ giấy gói có chứa thạch tín được tìm trong nhà của Trương Tụng Đức đâu?”.
“Thưa đây ạ”, Kim Kiền vội đáp. Thầm nghĩ: Đương nhiên là ở đây chứ đâu, lúc Tiểu Miêu vội vàng trở về cũng không quên lải nhải hàng nghìn hàng vạn lần về hai thứ này, khiến cho mình bây giờ hình thành phản xạ có điều kiện, đi đến đâu cũng không dám đem hai cái thứ đồ vướng víu này đặt xuống.
Kim Kiền lấy từ trong người ra một tờ giấy trắng, lại lôi từ túi đeo bên hông ra một siêu thuốc, đưa cho Công Tôn tiên sinh.
Công Tôn tiên sinh sau khi tỉ mỉ kiểm tra liền gật đầu nói: “Đại nhân, trong bã thuốc có chứa thạch tín, thứ dính trên tờ giấy trắng này cũng là thạch tín”.
Bao đại nhân gật gật đầu, quay sang nói với Triển Chiêu: “Triển hộ vệ, theo như lời ngươi nói, Trương Tụng Đức và Hoàng thị đều có mắc mứu với An Lạc hầu, cho nên vụ án này ắt có liên quan đến An Lạc hầu?”.
Triển Chiêu chắp tay nói: “Thuộc hạ phỏng đoán là như vậy, nhưng chưa chứng thực được”.
Công Tôn tiên sinh nói: “Đại nhân, Triển hộ vệ suy đoán quả thực rất có lý. Nhưng duyên cớ trong đó lại chưa điều tra tường tận được”.
Bao đại nhân gật gật đầu, nói: “Án này tuy rằng khó giải quyết, nhưng việc tới Trần Châu phát lương cứu trợ lần này thực vô cùng cấp bách. Chúng ta đành phát lương cứu nạn trước rồi mới tiếp tục điều tra”.
Mọi người cùng gật đầu.
Lúc này, ngoài cửa có người bẩm báo: “Đại nhân, hai vị đại nhân Trương Long, Triệu Hổ xin cầu kiến”.
Bao đại nhân nghe thế liền vui mừng, vội đáp: “Cho hai người đó vào”.
Trương Long, Triệu Hổ song song bước vào chính sảnh, sau khi ôm quyền thi lễ xong, ngẩng đầu nhìn thấy Triển Chiêu, Kim Kiền, hai người không khỏi kinh ngạc hỏi: “Triển đại nhân, hai người không phải ở lại Trần Châu tra án ư, vì sao lại đến đây trước cả chúng thuộc hạ vậy?”.
Công Tôn tiên sinh liền đem sự tình thuật lại sơ lược một lần.
Trương Long, Triệu Hổ nghe xong, khuôn mặt hiện lên vẻ kính phục, nhìn chăm chăm vào Triển Chiêu, hồi lâu sau mới ôm quyền nói: “Triển đại nhân can đảm trung nghĩa, thuộc hạ bội phục”.
Kim Kiền ở bên nghe vậy thì thấy mười phần khó chịu, thầm nghĩ: Hai cái tên này, chỉ nhìn thấy Triển Chiêu trung nghĩa can đảm, chẳng lẽ không nhìn ra được mình cũng xả thân vì nghĩa sao?
Triển Chiêu đáp lễ nói: “Đây là chức trách của Triển mỗ, huống hồ lần này Triển mỗ có thể thuận lợi đến được trấn An Bình này cũng là nhờ sự trợ giúp của Kim bổ khoái”.
Chậc chậc, vẫn là Tiểu Miêu có lương tâm.
Trương Long, Triệu Hổ lúc này mới ôm quyền thi lễ với Kim Kiền.
Bao đại nhân đứng dậy, ra lệnh cho tất cả: “Nay việc không thể chậm trễ, chúng ta lập tức khởi hành, gấp rút đi tới Trần Châu phát lương”.
“Thuộc hạ tuân lệnh”.
Trên đường đi, có Vương Triều, Mã Hán, Trương Long, Triệu Hổ, Tứ đại kim cương hộ vệ, Ngự miêu Triển Chiêu ở hai bên tả hữu không rời, lại thêm hai huynh đệ Hạng Phú, Hạng Phổ hộ vệ, vấn đề an toàn tất nhiên không phải lo.
Đoàn khâm sai hùng hậu, đi đường ước chừng mười ngày thì tới phủ Trần Châu.
Theo như lệ cũ, khâm sai đại thần tới nơi nào thì quan viên địa phương nơi đó phải ra khỏi thành nghênh đón, biểu thị sự tôn kính với hoàng ân.
Nhưng khi đội ngũ của Bao đại nhân đến cửa thành, ngoài cổng thành lại vắng lặng tĩnh mịch, đừng nói là đoàn các quan viên nghênh đón khâm sai mà ngay cả đến người đi đường cũng chẳng thấy một ai.
Bao đại nhân vén rèm lên nhìn, không khỏi nhíu chặt mày.
Mọi người cũng thầm thấy buồn bực cùng nghi hoặc.
Công Tôn tiên sinh đi đến trước kiệu, nhỏ giọng nói: “Đại nhân, thành Trần Châu này khác thường như thế, chỉ sợ ẩn giấu âm mưu ám sát, vào thành rồi e là nguy hiểm trùng trùng, đại nhân sao không…”.
“Công Tôn tiên sinh”, tiếng Bao đại nhân từ trong kiệu truyền ra, “truyền lệnh xuống, lập tức vào thành, đi thẳng tới nha môn tri phủ”.
Công Tôn tiên sinh thầm thở dài một cái, cao giọng nói: “Vào thành…”.
Kiệu được nâng lên, đội ngũ tiếp tục đi về phía trước, chầm chậm tiến đến phủ Trần Châu.
Chỉ thấy trong thành Trần Châu, việc buôn bán tiêu điều, người đi đường thưa thớt, cảnh tượng so với nhóm người Triển Chiêu nửa tháng trước từng thấy thực là khác biệt một trời một vực. Có mấy người bộ hành trên đường ngẫu nhiên gặp đội ngũ của Bao đại nhân, liền quay đầu bỏ chạy, như thể họ thấy cơn đại hồng thủy hay mãnh thú vậy.
Không lâu sau, đoàn khâm sai đã đến nha môn tri phủ Trần Châu, đại kiệu phủ đầy bụi đường, đội ngũ liền dừng lại trước nha môn.
Bao đại nhân ra chỉ thị: “Đưa tri phủ đến trước kiệu!”.
“Dạ”.
Trương Long, Triệu Hổ thúc ngựa đi đến trước cửa phủ nha, ngước mắt lên nhìn, nha môn này, chẳng hề có hơi người, cửa lớn đóng chặt, trước cửa ngoại trừ một cặp sư tử đá ngay đến một chút khí tức chứng tỏ có người cũng chẳng thấy.
Hai người nhảy xuống ngựa, đập cửa rầm rầm gọi: “Mở cửa!”.
Không lâu sau, cửa mới mở hé ra một chút, bên trong một ông lão tuổi đã cao râu tóc bạc phơ thò đầu ra, hỏi: “Tìm ai đó?”.
Trương Long giận dữ nói: “Tìm tri phủ đại nhân của các ngươi, mau vào bẩm báo có Khâm sai đại nhân tới”.
Ông lão vừa nghe vậy liền giật mình hoảng sợ, vội vàng rụt đầu lại, kêu lên: “Lão đi ngay!”.
Đợi một lát, cửa lớn mở ra, có vài người hầu xuất hiện từ hai bên, chính giữa là một viên quan bước ra.
Chỉ thấy viên quan này đầu đội mũ ô sa, thân vận quan bào màu lam, ước chừng khoảng bốn lăm, bốn sáu tuổi, mặt trắng da trơn, cằm nhọn, ba chòm râu đen nhánh rũ xuống, thoạt nhìn giống cá trê đến mấy phần. Viên quan này ngó đông, nhìn tây, sau cùng mới cất bước, đi đến trước kiệu của Bao đại nhân, khom người thi lễ: “Khâm sai đại nhân ở trong, ti chức tri phủ Trần Châu, Lý Thanh Bình xin khấu kiến. Ti chức nghênh đón chậm trễ, mong đại nhân thứ tội”.
Bao đại nhân liếc nhìn một cái rồi trầm giọng nói: “Lý đại nhân, ông có biết bản khâm sai đến Trần Châu phát lương không?”.
Lý tri phủ run lên, đáp: “Đã… đã sớm biết”.
“Vì sao lại không đXổng thành nghênh đón?!”
Mồ hôi trên trán Lý tri phủ túa ra rơi xuống, ông ta vội trả lời: “Xin đại nhân bớt giận, ti chức có chuyện muốn bẩm báo, nơi này không tiện, xin đại nhân hạ cố vào trong phủ nói chuyện”.
Bao đại nhân nhìn Lý Thanh Bình một cái rồi gật đầu, bước ra khỏi kiệu, đi vào nha môn. Những người còn lại theo thứ tự cũng lần lượt tiến vào.
Lý tri phủ cung kính đưa Bao đại nhân vào phòng khách, Bao đại nhân ngồi xuống, đặt hoàng bảng thánh chỉ lên, Lý Thanh Bình quỳ xuống khấu đầu bái lạy.
Hành lễ xong, Lý tri phủ lại thi lễ lần thứ hai với Bao đại nhân, luôn miệng nhận tội: “Ti chức không thể ra nghênh đón, quả thực là thất trách”.
Bao đại nhân trầm giọng hỏi: “Vì sao không nghênh đón?”.
“Việc này…”, Lý Thanh Bình lộ vẻ khó xử, do dự hồi lâu ông ta mới nói: “Là bởi An Lạc hầu gia đã phái người đưa chỉ thị đến phủ rằng, nếu có người nào đi nghênh đón khâm sai đại nhân, thì toàn gia sẽ bị tịch biên tài sản và chém đầu. Ti chức cũng vì vạn bất đắc dĩ, mong đại nhân thứ tội”.
“Hoang đường!”, Bao đại nhân vỗ mạnh thành ghế, nộ khí xung thiên quát lên: “Lần này bản phủ phụng chỉ đi phát lương cứu nạn, đến nơi nào thì như thánh giá tới. An Lạc hầu lại cả gan hạ lệnh như vậy, rõ ràng là coi thường thánh thượng, rẻ rúng vạn tuế!”.
Lý Thanh Bình chỉ thấy như có tiếng sấm động bên tai, chân tay mềm nhũn, phịch một tiếng liền quỳ sụp xuống đất, kêu lớn: “Khâm sai đại nhân xin thứ tội!!!”.
Bao đại nhân ngẫm lại cũng thấy không thể trách viên tri phủ này được, dù sao đối với mệnh lệnh của An Lạc hầu y cũng không thể không nghe, Bao đại nhân đè nn lửa giận xuống, hỏi tiếp: “Lý tri phủ, ngươi đã chuẩn bị hành quán cho bản phủ chưa?”.
“Bẩm chưa, An Lạc hầu không cho chuẩn bị…”, Lý Thanh Bình trả lời, rồi ngước mắt nhìn lên, thấy sắc mặt của Bao đại nhân sa sẩm, liền vội vàng sửa lại: “Đại nhân nếu không chê, xin hãy lấy phủ nha này làm hành quán, sắp xếp ổn thỏa ở đây trước, có được không?”.
Bao đại nhân ngừng một chút, mới thở dài nói: “Hiện giờ cũng chỉ có thể như thế”.
Lúc này Lý Thanh Bình mới thở phào nhẹ nhõm, lệnh cho gia nhân dâng trà lên, rồi mời Công Tôn tiên sinh, Triển Chiêu cùng an tọa.
Bao đại nhân liền tra hỏi tỉ mỉ về tình hình hạn hán của Trần Châu, Lý Thanh Bình tất nhiên không dám giấu giếm, trả lời rõ đầu đuôi ngọn ngành.
Nhưng vào lúc này, ngoài đường bỗng vang lên tiếng pháo nổ: Đùng đùng đoàng đoàng, đùng đùng đoàng đoàng, vang dội như sấm dậy, làm chấn động cả xà nhà trong phòng khách của nha môn tri phủ, khiến cho bụi bặm rơi cả xuống.
Mọi người trong phòng đều bị làm cho giật mình nhảy dựng.
Kim Kiền tự hỏi: Ôi, chuyện gì thế? Vừa mới rồi nói là không nghênh đón, giờ lại nghĩ đến chuyện đốt pháo chúc mừng hả?
Ngay cả Bao đại nhân cũng sửng sốt, hỏi: “Đậy là cớ làm sao?”.
Lời còn chưa dứt thì một vệ binh chạy như bay vào phòng khách bẩm báo: “Bẩm đại nhận, cửa thành Trần Châu đột nhiên bị đóng chặt, cầu treo được nâng lên, toàn thành đều giới nghiêm”.
Hả?
Mọi người đồng thời cùng nhìn về phía Lý Thanh Bình, Lý tri phủ, ý tứ là: Thói tục gì của Trần Châu các người thế, giữa trưa mà đã khóa cổng thành rồi?
Mà Lý Thanh Bình nghe xong vốn không hiểu, sau mặt liền biến sắc, đứng phắt dậy nói: “Hỏng rồi, lẽ nào là An Lạc hầu…”.
“Báo…”
Còn chưa nói xong thì vệ binh thứ hai chạy vào, hô lớn: “Bẩm đại nhân, bên ngoài quân đội đông nghịt, nghe nói là đại quốc cữu An Lạc hầu dẫn quân đi đến phủ nha, xin đại nhân mau mau chuẩn bị!”.
Mọi người nghe vậy, nhất thời kinh hoàng.
Kim Kiền lảo đảo thiếu chút nữa thì ngã bịch xuống đất. Lòng thầm hô to không hay rồi: Lẽ nào tên An Lạc hầu này muốn ‘bắt ba ba trong chum’, đem bỏ tất cả chúng ta vào nồi nấu một mẻ? Chuyện kích thích thế nào sao trong lịch sử không ghi lại chứ?!
Ngay sau đó, người thứ ba cũng vội vã chạy vào hô: “Đại nhân, đại sự không hay rồi, An Lạc hầu dẫn một đội nhân mã bao vây xung quanh nha môn tri phủ, đang ở ngoài cửa rêu rao, muốn đích thân đại nhân ra bái kiến!”.
Vương Triều, Mã Hán, Trương Long, Triệu Hổ nghe xong nhất thời nổi giận đùng đùng, cùng bước lên trước, khom người nói: “Đại nhân xin hãy hạ lệnh cho bốn huynh đệ chúng thuộc hạ bắt tên An Lạc hầu kia để đại nhân xử lý!”.
Dứt lời, họ như muốn rút dao xông ra ngoài.
“Khoan đã!”, Bao đại nhân trầm giọng quát, ngăn cước bộ của bốn người bọn họ, “Các ngươi chớ hành động thiếu suy nghĩ!”, ngưng một chút, lại nói: “Để bản phủ ra ngoài xem rốt cuộc hắn muốn gì!”.
Mọi người nghe vậy liền cuống cả lên, Công Tôn tiên sinh vội bước lên ngăn Bao đại nhân lại: “Đại nhân, An Lạc hầu đến ắt không có ý tốt, nếu đại nhân đi ra há chẳng phải là đưa dê vào miệng cọp sao? Xin đại nhân cân nhắc!”.
Mọi người cũng trăm miệng một lời: “Xin đại nhân cân nhắc!”.
Bao đại nhân chầm chậm đứng lên, quét mắt một vòng, lắc đầu đáp: “Các ngươi không cần nhiều lời, bản phủ phải đi gặp An Lạc hầu!”.
Mọi người vừa nhìn thấy khuôn mặt xanh đen của Bao đại nhân liền biết có nhiều lời nữa cũng vô ích, chỉ có thể y lệnh mà làm, lùi lại phía sau.
Triển Chiêu bỗng tiến lên, ngăn Bao đại nhân lại, sang sảng nói: “Đại nhân nếu muốn ra ngoài, xin hãy chấp thuận cho Triển Chiêu đi theo!”.
Bao đại nhân sửng sốt: “Triển hộ vệ…”.
Triển Chiêu khom người, nhấc vạt áo quỳ một gối xuống, tay cầm chặt Cự Khuyết, lại cao giọng hơn vài phần: “Xin đại nhân hãy chấp thuận cho Triển Chiêu đi theo!”.
Bao đại nhân nhìn Triển Chiêu rồi gật gật đầu.
Lúc này Triển Chiêu mới đứng dậy, theo sát phía sau Bao đại nhân bước ra ngoài. Bốn người Vương Triều, Mã Hán, Trương Long, Triệu Hổ cũng bám sát Triển Chiêu, các nha dịch trong phòng cũng đi theo; chỉ trừ một mình Kim Kiền chầm chậm lui lại phía sau, xem chừng muốn thoát khỏi tầm mắt mọi người.
Nhưng đột nhiên ánh mắt Triển Chiêu quét qua, đôi con ngươi như có điện, chuẩn xác vừa vặn nhìn vào mặt Kim Kiền.
Kim Kiền lạnh sống lưng, vội vàng cất bước đi theo, thầm kêu: Ánh mắt con mèo này òn tinh hơn cả rada… Chẹp chẹp, mình vẫn nên đi theo để biểu thị lòng trung thành thì an toàn hơn, cho dù ở bên ngoài là một trường sinh tử thì cũng còn hơn là bị “tia laser mắt mèo” giết chết, vả lại có Tiểu Miêu ở đó, phỏng chừng cũng không có gì nguy hiểm đến tính mạng.
Mọi người đi ra đến sân viện, chỉ thấy hơn trăm hộ vệ trong viện thần sắc đều trầm xuống, không khí căng thẳng đến dị thường.
Cước bộ của Bao đại nhân vẫn ổn định vững vàng, sắc mặt thản nhiên, đi tới Nghĩa môn, đứng thẳng người, ánh mắt như có điện nhìn ra ngoài.
Chỉ thấy đoàn người, đông nghìn nghịt, toàn bộ đều là quân đội của phủ An Lạc hầu, bộ binh ở phía trước, kỵ binh ở phía sau, cung thủ ở góc trận thế. Nhìn tới chính giữa trận, một lá cờ đỏ viền vàng đang tung bay trong gió, trên đó có thêu một chữ “Bàng” rất to. Phía dưới cờ là một con bảo mã quý hiếm, ngẩng đầu ưỡn ngực đứng hiên ngang, người ngồi trên lưng ngựa, mặt như thoa phấn, mày dài đôi mắt phong tình, khóe mắt còn mang theo vẻ khinh thị, vận y phục bằng gấm, ngọc bội giắt ngang hông, áo choàng đỏ như nhuộm máu, chính là An Lạc hầu Bàng Dục.
Kim Kiền vừa nhìn khung cảnh bên ngoài, nhất thời choáng váng, trong đầu bỗng nhiên nhảy ra một cụm từ vô cùng hợp tình hợp cảnh: Đầm rồng hang hổ…