Sáng sớm hôm sau, mặt trời vừa ló dạng, Bao đại nhân liền thăng đường thẩm án.
“Uy vũ…”.
Trong công đường Khai Phong phủ, Tam ban nha dịch đứng thẳng tắp hai bên, trống thăng đường dồn dập, uy phong lẫm lẫm, Bao đại nhân ngồi chính giữa công đường, võ kinh đường mộc trong tay chát một tiếng, cao giọng quát: “Giải huynh đệ Ngô thị lên!”.
“Giải huynh đệ Ngô thị lên…”, tiếng hô truyền gọi vang từng đợt ra bên ngoài.
Lát sau, chợt nghe có tiếng gông xiềng, cùm châm va vào nhau lẻng xẻng, hai sai dịch giải huynh đệ Ngô thị lên công đường.
Bao đại nhân nghiêm nghị ngồi phía trên, đưa mắt nhìn xuống phía dưới công đường, chỉ thấy phía dưới có hai kẻ đang quỳ, vận áo tù nhân, một vạm vỡ, một thấp lùn, kẻ cao to kia râu ria đen sì kéo đến tận mang tai, giữa mi tâm ẩn hiện vẻ hung ác xiểm nịch; kẻ còn lại, thân hình hơi lùn, hai mắt hấp háy, khuôn mặt mang vẻ kinh hoàng sợ hãi, toàn thân run rẩy không ngừng.
“Quỳ dưới công đường là kẻ nào?”, Bao đại nhân nheo nheo mắt, trầm giọng hỏi.
“Thảo… thảo dân là Ngô Nhị Cương”, kẻ thấp hơn run lẩy bẩy đáp.
“Thảo dân Ngô Đại Lực”, kẻ cao to cũng trả lời.
Chát!
Bao đại nhân bỗng vỗ mạnh kinh đường mộc, cao giọng quát: “Điêu dân to gan, phạm trọng tội như thế, còn dám tự xưng là thảo dân?!”.
Ngô Nhị Cương bị dọa cho run như cầy sấy, vội khom lưng phủ phục xuống, miệng lấp bắp nói: “Tội… tội dân Ngô… Ngô…”.
“Đại nhân!”, Ngô Đại Lực đột nhiên lên tiếng: “Không biết thảo dân phạm tội gì, vì sao không thể tự xưng là thảo dân?”.
Bao đại nhân lạnh lùng trừng mắt nhìn, trầm giọng nói: “Hai huynh đệ ngươi mưu đồ giết người cướp của, sát hại người qua đường là Lưu Thế Xương, lại còn thêu đốt thân thể hắn làm thành ô bồn. Phường hung ác tàn bạo như thế, sao có thể xứng đáng với hai chữ ‘thảo dân’?”.
Ngô Đại Lực tuy thân hình có chấn động đôi chút, nhưng sắc mặt vẫn y như cũ, thâm trầm nói: “Đại nhân, oan cho thảo dân, thảo dân chưa bao giờ giết người”.
Bao đại nhân trợn trừng hai mắt, lại quát lên: “Điêu dân to gan, ngươi nhìn cho rõ đi, vật trên công đường là thứ gì?”.
Tiếng nói vừa dứt, nha dịch liền đem một bọc vải màu đen lên công đường, mở túi lấy ra một cái ô bồn đen sì đặt xuống trước mặt hai huynh đệ Ngô thị.
Ngô Nhị Cương vừa nhìn thấy ô bồn liền kinh hoàng biến sắc, huơ huơ tay, sợ hãi kêu lên: “Đem… đem hắn đi đi, đừng… đừng mà…!”, dứt lời liền nhào về phía cửa công đường định chạy trốn. Nhưng nha dịch hai bên sao có thể để mặc hắn như thế, hai tay sát uy bổng nhất thời vung ra, ghìm Ngô Nhị Cương quỳ nguyên tại chỗ. Ngô Nhị Cương chỉ có thể run lẩy bẩy dưới sát uy bổng.
Ngô Đại Lực nhìn thấy ô bồn, vẻ kinh hoàng cũng hiện rõ trên mặt, hơi co người lùi về phía sau, da mặt giật giật, một lúc lâu sau cũng không phát ra được âm thanh nào.
Bao đại nhân quét mắt xuống công đường, nghiêm sắc mặt, đột nhiên cao giọng: “Ngô Đại Lực, Ngô Nhị Cương, nay chứng cớ phạm tội vô cùng xác thực, các ngươi còn không mau nhận tội?”.
Lời này như sấm động bên tai, sét đánh mái nhà, hai kẻ quỳ dưới công đường giật mình run sợ.
Bao đại nhân hừ lạnh một tiếng, tầm mắt chuyển sang ô bồn, trầm giọng hỏi: “Lưu Thế Xương, ngươi có biết hai kẻ trên công đường này không?”.
Nhưng ô bồn dưới công đường lại im lặng dị thường.
Bao đại nhân kinh ngạc, giọng lại cao hơn mấy phần: “Lưu Thế Xương, ngươi có nghe thấy bản phủ hỏi không?”.
Ô bồn vẫn không trả lời.
Bao đại nhân nhíu chặt hai hàng lông mày, đưa mắt về phía Công Tôn tiên sinh đang ngồi sau mộc án dưới công đường, ánh mắt mang theo ý hỏi.
Công Tôn tiên sinh cũng hơi ngẩn ra, khuôn mặt tỏ vẻ không giải thích được, lắc lắc đầu, lại đưa mắt sang hộ vệ áo đỏ đối diện, nhưng Triển Chiêu cũng nhíu chặt mày, sắc mặt nghi hoặc.
Cả ba người đều thầm thấy khó hiểu, còn Ngô Đại Lực lại vô cùng sung sướng. Ngô Đại Lực vốn chỉ là ngoan cố kiên trì không chịu nhận tội, thầm tính toán, nếu tội danh sát nhân khó tránh khỏi thì sẽ đem mọi hành vi tội lỗi đổ hết lên đầu nhị đệ, Ngô Nhị Cương. Bản thân hắn cũng từng nghe thấy ô bồn nói chuyện, lúc này rất sợ ô bồn tự mình ra làm chứng, đang lúc lo lắng sợ hãi thì ô bồn lại im lặng không có tiếng động, thầm suy xét một hồi, phỏng chừng ô bồn nói chuyện lúc đó chẳng qua chỉ là thuật che mắt của nha dịch Khai Phong phủ, không khỏi thầm mừng rỡ, cao giọng lên vài phần nói: “Đại nhân, thảo dân chưa bao giờ giết người, mong đại nhân minh xét!”.
Bao đại nhân nhất thời không nói lời nào, cả công đường rơi vào im lặng.
Mà lúc này ngoài công đường, một bóng người thập thò bên cửa đột nhiên thẳng đứng thẳng, hối hả chạy về phía lục phòng[1], xông thẳng vào phòng đầu tiên mé phía đông, người còn chưa dừng lại, miệng đã hô lên: “Kim Kiền, không hay rồi, ô bồn lại không nói được rồi!”.
[1] Lục phòng: là nơi làm việc của các nha dịch ở bên ngoài công đường, khi đang thăng đường xử án, đây là một nơi họ đợi để phục mệnh.
Một người đang lười nhác ngồi trên chiếc ghế gỗ, nhìn thấy người chạy đến tựa hồ như chẳng có chút ngạc nhiên nào, chỉ giơ một ngón tay lên, chỉ chỉ vào một góc tối tăm u ám trong góc phòng, bất đắc dĩ nói: “Tiểu Lục ca, cái đó có gì đáng kinh ngạc, cậu nhìn sang bên kia đi, sẽ rõ ngay thôi”.
Trịnh Tiểu Liễu nhìn theo hướng ngón tay chỉ, nhất thời cả kinh. Trong góc tối tăm, một cái bóng màu trắng bồng bềnh khi ẩn khi hiện, như sương như khói, mờ nhạt không rõ, nhưng vẫn lờ mờ nhìn ra một bóng người.
“Lưu… Lưu Thế Xương?! Anh… anh sao vẫn còn ở đây? Anh đáng ra phải ở trong ô bồn mới đúng chứ?”.
Cái bóng trắng trong góc kia khẽ khàng lay động, u uất nói: “Sát khí của công đường quá nặng, tôi căn bản không có cách nào đi vào…”.
“Cái gì? Vậy… vậy phải làm thế nào? Không có anh làm chứng, những chứng cứ khác vốn không có cơ sở xác thực, Bao đại nhân sẽ thẩm án như thế nào?!”, Trịnh Tiểu Liễu kêu lên, khuôn mặt đầy vẻ lo lắng.
“Trừ phi không xử án ở trong công đường nữa, nếu không tôi căn bản không có cách nào ra làm chứng…”, Lưu Thế Xương buông thõng tay đáp.
Trịnh Tiểu Liễu lắc đầu nói: “Thẩm án ngoài công đường, không hợp pháp lý, thẩm chí còn không thể ghi vào trong hồ sơ, đương nhiên không thể được”.
“Cái gì?”, Kim Kiền từ nãy đến giờ vẫn ung dung ngồi một bên, nghe vậy liền nhảy dựng từ trên ghế xuống, kinh ngạc la lên: “Làm phiền tôi? Lưu ô bồn, anh không phải là muốn mượn thân thể tôi nhập hồn vào, rồi lên công đường làm chứng chứ?”. Bụng thì thầm nghĩ: Đùa à, cái trò nhập hồn này không biết để lại những di chứng gì, mình tuyệt đối không đồng ý!
Lưu Thế Xương nghe xong không khỏi sửng sốt, ngẩn ra một lúc mới nói: “Kim tiểu ca nghĩ đi đâu vậy? Tôi chẳng qua là một oan hồn, nào có năng lực nhập hồn chứ, mà cho dù có nhập hồn thì cũng không thể đi vào công đường được”.
Kim Kiền nghe được những lời này mới yên tâm vài phần, nhãn cầu đảo vài vòng, khẽ lui về phía sau một bước, lại hỏi: “Vậy anh muốn tôi giúp gì?”.
Lưu Thế Xương bay là là giữa không trung, yếu ớt nói: “Tôi muốn phiền cậu hãy giả làm tôi, lên công đường làm chứng”.
Kim Kiền trợn tròn mắt, trừng trừng nhìn u hồn âm ảnh, da mặt có chút giật giật nói: “Ý của lão huynh ngài là muốn tôi giả vờ bị ngài nhập hồn, sau đó lên công đường với thân phận Lưu Thế Xương, vạch trần tội lỗi của đôi huynh đệ kia?!”.
Lưu Thế Xương gật gật đầu.
“Có nhầm không đấy?! Không nói nữa!”, Kim Kiền lập tức hét to lên, lòng thầm nhủ: Thế nào lại bắt mình, đường đường một người hiện đại đi làm cái việc khai man mạo hiểm thế chứ, ngộ ngỡ bị vạch trần thì chẳng là rước họa vào thân à?!”.
Trịnh Tiểu Liễu nghe thế liền lắc đầu như trống bỏi, cao giọng nói: “Đương nhiên là không được, đây chính là làm chứng giả, vu tội trên công đường!”.
Kim Kiền thấy vậy, hai mắt sáng lên, vội hỏi: “Câu gì?”.
Lưu Thế Xương lại ngẫm nghĩ một lát, đem câu cuối cùng nghe được trước khi chết nói lại tường tận cho Kim Kiền biết.
Kim Kiền nghe xong mới vững dạ, gật đầu với Lưu Thế Xương, đẩy cửa phòng ra ngoài nói với Trịnh Tiểu Liễu: “Tiểu Lục ca, phiền anh đến công đường truyền báo một tiếng, nói là nạn nhân – Lưu Thế Xương muốn lên công đường làm chứng”.
Trịnh Tiểu Liễu nghe được lời của Kim Kiền, trù trừ một lát mới gật gật đầu, quay người chạy về phía công đường. Kim Kiền cũng đi theo sau, vừa đi vừa cởi chiếc mũ của nha dịch đội trên đầu xuống giắt vào thắt lưng, lại xõa búi tóc ra, vò vò tóc vài cái, nhất thời đem bản thân hóa thành hình dạng một oan hồn tóc tai xõa xượi vô cùng hoàn mỹ y như miêu tả trong sách vở.
Cho đến khi Kim Kiền chuẩn bị mọi thứ ổn thỏa đâu vào đấy thì cũng vừa lúc đến cửa công đường. Hai cánh cửa lớn của công đường mở rộng, âm thanh bên trong đều truyền đến tai hai người.
Chợt nghe giọng nói trầm trầm của Bao đại nhân quát lớn: “Ngô Đại Lực, ngươi nói ngươi chưa bao giờ giết người, vì sao lại dùng cái rìu này uy hiếp sai dịch Khai Phong phủ, đe dọa để thoát thân? Rõ ràng là hành vi có tật giật mình!”.
Ngô Đại Lực đáp: “Đại nhân, quan gia của Khai Phong phủ lúc đầu không nói rõ thân phận, khi ấy thảo dân còn tưởng rằng họ là kẻ xấu muốn hại hai huynh đệ thảo dân, vì để tự bảo vệ mình nên mới làm như thế”.
Bao đại nhân cao giọng hỏi tiếp: “Vậy vì sao sau khi biết được thân phận của nha dịch ngươi lại không chịu thả người?”.
Ngô Đại Lực trả lời: “Lúc đó thảo dân biết đã mình đã đắc tội với quan gia, nhất thời sợ hãi, chỉ muốn chạy trốn nên mới không thả người!”.
Bao đại nhân bỗng im lặng, cả công đường trên dưới đều là một mảnh tĩnh lặng.
Kim Kiền ở bên ngoài nghe vậy, lòng liền sáng tỏ, thầm nghĩ: Được! Tám phần là lão Bao đã bế tắc, không trâu bắt chó đi cày, giờ mà mình không giúp cũng không xong.
Nghĩ vậy, Kim Kiền liền đưa mắt ra hiệu cho người bên cạnh, Trịnh Tiểu Liễu hiểu rõ, lập tức đi thẳng ra cửa công đường, cao giọng hô: “Bẩm đại nhân, Lưu Thế Xương tới!”.
Những lời này vừa nói ra, chúng nhân trên công đường đều sững sờ, cảm thấy khó hiểu muôn phần, lòng thầm nghĩ: Đại nhân còn chưa phát lệnh truyền gọi, sao đột nhiên lại nảy ra một sai dịch dẫn người lên công đường, hơn nữa kẻ truyền báo lại là tạp vụ của Tạo ban. Nhưng điều khiến người ta không thể tưởng tượng được nhất chính là, người được truyền báo lên công đường chính là Lưu Thế Xương, một kẻ đã chết.
Huynh đệ Ngô thị vừa nghe thấy tên Lưu Thế Xương lại càng kinh sợ, gân cốt, da thịt cơ hồ đều co rút hết cả, không khỏi ngoái đầu ra phía cửa công đường mà quan sát.
Bao đại nhân cũng giật mình, đưa mắt nhìn về phía ô bồn trong công đường, lại hướng sang phía Công Tôn tiên sinh. Công Tôn tiên sinh tuy gương mặt vẫn mang vẻ nghi hoặc nhưng cũng khẽ gật đầu với Bao đại nhân.
Bao đại nhân liền giơ kinh đường mộc trong tay bên vỗ một cái nói: “Truyền Lưu Thế Xương lên công đường!”.
Kim Kiền ở bên ngoài nghe thấy vô cùng rõ ràng, lòng không khỏi giật thót một cái, thẳng người lên, hít sâu một hơi, thầm nghĩ: Bà nó, không nghĩ nhiều nữa, giờ thì bất cứ giá nào cũng phải cho người cổ đại mở rộng tầm mắt, cho họ chút hiểu biết về kỹ thuật diễn xuất cao siêu của người hiện đại được hun đúc bởi các loại phim truyền hình.
Nghĩ đến đây, Kim Kiền vận khí dưới chân, thân hình phiêu phiêu như sương như khói, lững lờ bay vào trong công đường, khom người quỳ xuống, hạ giọng nói: “Thảo dân Lưu Thế Xương bái kiến đại nhân”.
Chúng nhân trên công đường đều chăm chú nhìn, chỉ thấy người này tóc tai tán loạn, thân hình lơ lửng trôi trong không trung, còn tự xưng là Lưu Thế Xương, ai nấy đều giật mình hoảng hốt. Nhưng nom kỹ lại thì thấy người này hơi quen quen, đó chẳng phải là Kim Kiền của Tạo ban hay sao?
Huynh đệ Ngô thị chưa từng nhìn thấy khinh công của Kim Kiền, chỉ thấy thân hình người này tựa hồ như ma như quỷ, tức thì bị dọa cho bay mất cả nửa hồn phách, Ngô Nhị Cương thì khỏi phải nói, đến cả Ngô Đại Lực cũng biến sắc.
Bao đại nhân trên công đường nhìn thấy rất rõ ràng lòng không khỏi có chút khó hiểu, sững ra một lát mới hỏi: “Quỳ dưới công đường là kẻ nào?”.
Kim Kiền lại trầm giọng đáp: “Thảo dân Lưu Thế Xương”.
Bao đại nhân ngạc nhiên, đưa mắt nhìn sang Công Tôn tiên sinh. Công Tôn tiên sinh tay cầm bút, im lặng trầm ngâm, sau đó lại quay sang Triển Chiêu.
Triển Chiêu thấy Công Tôn tiên sinh nhìn mình liền hiểu ý, nhủ thầm: Công Tôn tiên sinh cho rằng Kim Kiền từng cùng ta xuất môn tra án, nghĩ ta đối với hành động của y cũng hiểu vài phần, muốn ta giải thích tình huống hiện nay rốt cuộc là thế nào. Nhưng…
Triển Chiêu hồi tưởng lại những hành vi trước đây của Kim Kiền, mây đen bay đầy đầu, thầm nghĩ: Lần này Công Tôn tiên sinh đánh giá cao Triển mỗ rồi. Hành vi của Kim Kiền trước nay đều quái dị, hành động hôm nay là thật hay là giả cũng khó mà đoán được.
Nghĩ vậy, Triển Chiêu nhíu đôi mày lưỡi mác, nhìn Công Tôn tiên sinh khẽ lắc đầu.
Hành động này của Triển Chiêu, Công Tôn tiên sinh và Bao đại nhân đều thấy rất rõ. Trước tình huống như vậy, hai mắt Bao đại nhân nheo lại, cao giọng quát: “Ngươi tự xưng là Lưu Thế Xương, vậy ngươi có biết ô bồn phía trước không?”.
Kim Kiền nghe vậy vội đáp: “Bẩm đại nhân, thảo dân biết, ô bồn này chính là thi thể của thảo dân”.
Bao đại nhân lại hỏi: “Ô bồn này vì sao lại là thi thể của ngươi?”.
Kim Kiền hít sâu một hơi, giả vờ nghẹn ngào, chậm rãi nói: “Bẩm đại nhân, thảo dân đang trên đường về nhà thì bị hai huynh đệ cho thảo dân tá túc một một đêm kia sát hại. Hai huynh đệ hắn chẳng những giết người cướp của, lại còn đem thi thể của thảo dân thiêu thành tro bụi, trộn vào đất bùn nung thành ô bồn, mang đi bán cho người ta. Đại nhân, mong ngài hãy trả lại công bằng cho thảo dân!”.
Bao đại nhân nheo nheo mắt, đánh giá Kim Kiền từ trên xuống dưới vài lượt, rồi hỏi: “Lưu Thế Xương, ngươi có nhận ra được hai huynh đệ sát hại ngươi không?”.
“Việc này…”, đôi con ngươi của Ngô Đại Lực đảo vài vòng, lập tức trả lời: “Đại nhân, thảo dân tuy không biết Lưu Thế Xương nhưng lại biết tiểu sai dịch này. Đó là một trong ba sai dịch đã đến nhà thảo dân hôm qua”.
Kim Kiền nghe vậy hơi nhướng mày lên, tiếp tục nói, giọng xa xôi mờ ảo: “Bẩm đại nhân, thảo dân bị hai huynh đệ họ sát hại, thi thể bị nung thành ô bồn, oan hồn không cách nào lên công đường, đành mượn thân thể Kim Kiền nhập vào để lên công đường kêu oan”.
Mọi người nghe xong, lại càng kinh ngạc, nhất tề giương mắt lên quan sát kỹ Kim Kiền. Chỉ thấy hai mắt Kim Kiền dại đi, thân thể cứng đờ, tuy miệng thì nói nhưng lưỡi lại thẳng băng cứng ngắc, chẳng giống bình thường chút nào, không khỏi tin đến bảy phần.
Nhưng Ngô Đại Lực không tin, lại cao giọng nói: “Oan hồn của Lưu Thế Xương mượn xác nhập hồn, thực quá hoang đường! Ai có thể làm chứng chuyện này được chứ?”.
Kim Kiền nghe thế cũng không khỏi sững sốt, thầm nghĩ: Ai có thể làm chứng được ư? Làm gì có ai chứ, chuyện này vốn là giả mà, sao có người làm chứng được?
Bao đại nhân nghe xong đột nhiên lại vỗ mạnh kinh đường mộc, cao giọng hô: “Người đâu, truyền Lưu thị, Lưu Bách Nhi”.
Đừng nói huynh đệ Ngô thị nghe mà kinh ngạc, ngay đến Kim Kiền khi đó cũng thầm kêu khổ, nghĩ bụng: Lão Bao à, ngài đùa à, tôi giả mạo Lưu Thế Xương, ngài như thế nào còn mới thân nhân của người ta đến nhận chứ? Haizzz, xem ra vở kịch này khó mà diễn tiếp được nữa rồi.
Không lâu sau đã thấy Lưu thị dắt Bách Nhi lên công đường, cả hai cũng quỳ xuống.
Bao đại nhân gật đầu, nhìn Kim Kiền hỏi: “Ngươi có biết hai người này không?”.
Lúc này mồ hôi lạnh đã túa đầy lưng Kim Kiền, nhưng đã đâm lao thì phải theo lao, nàng gắng gỏi đáp: “Thảo dân biết, họ chính là thê tử và nhi tử của thảo dân”.
Lưu thị và Bách Nhi nghe vậy nhấy thời kinh hoàng thất sắc, Lưu thị hoảng hốt kêu lên: “Cậu… cậu nói cái gì? Cậu không phải chính là tiểu sai dịch sao, vì sao lại nói láo như vậy?”.
Bách Nhi thì trấn tĩnh hơn, vẻ mặt không vui nói: “Vị ca ca này chớ nói bậy, đừng làm hỏng thanh danh nhà tôi”.
Lúc này Kim Kiền chỉ thấy bắp chân như bị chuột rút, hít sâu một hơi, chậm rãi xoay người, rưng rưng nhìn hai mẹ con Lưu thị thật lâu rồi mới từ từ nói: “Nương tử, Bách Nhi, ta chính là cha con, Lưu Thế Xương đây!”.
Mẹ con Lưu thị thoáng biến sắc, kinh ngạc nhìn chằm chằm Kim Kiền, Lưu thị run run nói: “Cậu… cậu nói cậu là tướng công?”.
Kim Kiền gật đầu, nói tiếp: “Vi phu vì muốn lên công đường làm chứng nên đã mượn thân thể vị quan gia này để nhập hồn. Nương tử, Bách Nhi, cuối cùng vi phu cũng có thể nhìn thấy hai người rồi…”.
Dứt lời, Kim Kiền cúi đầu xuống, hai vai run run, nom chừng như muốn khóc, thực tế thì lòng đang lo lắng không yên, khẽ run rẩy.
“Màu…”, mồ hôi lạnh túa ra đầy đầu, Kim Kiền vừa nghĩ vừa oán giận trong lòng: Lão Bao, tuy ngài nói cái đèn lồng kia khó có thể làm vật chứng được, nhưng ít ra ngài nên mang nó ra chứ… Chết tiệt, cái đèn lồng cá chép đó màu gì nữa không biết? Thôi vậy, đoán bừa đi…
“Màu đỏ”, Kim Kiền chọn bừa một màu.
Chẳng ngờ lời này vừa nói ra, Bách Nhi liền nhào đến bên Kim Kiền, khóc rống lên: “Cha, người đúng thật là cha rồi”.
Kim Kiền thở phào nhẹ nhõm, thầm nghĩ: Không ngờ mình lại may mắn đến vậy, bịa đại ra một màu, nói bừa thế mà trúng. Nếu trở về hiện đại, mình nhất định sẽ dốc hết vốn liếng đi mua mấy tờ xổ số Mark six mới được, chắc chắn sẽ có triển vọng thắng lớn.
Mẹ con Lưu thị khóc thảm thiết đến mức đất trời cũng như cùng sầu héo, còn sắc mặt huynh đệ Ngô thị cũng biến đổi như trời đất vậy.
Ngô Nhị Cương thần sắc như tiêu tán mất chỉ ngồi phịch xuống đờ ra đất. Còn sắc mặt Ngô Đại Lực cũng trắng bệch, miệng lắp bắp không ngừng: “Không thể nào, không thể nào…”. Rồi đột nhiên hắn hét lên với Kim Kiền: “Không… không thể nào… ngươi… nhất định là các ngươi thông đồng với nhau, lừa gạt chúng ta nhận tội, nhất định là như thế!”.
Kim Kiền nghe vậy, không khỏi thầm cười nhạt, nghĩ tới câu cuối cùng của Lưu Thế Xương nghe được trước khi chết, bèn nhìn trừng trừng vào Ngô Đại Lực, chậm rãi nói: “Ngô Đại Lực, ngươi còn nhớ không, lúc ngươi giết ta, ngươi vừa chém xuống vừa nói: ‘Ai cũng biết tiền bạc phải cất kỹ không được lộ ra. Có trách thì hãy trách ngươi không cất tiền cho cẩn thận, để hai huynh đệ chúng ta nhìn thấy được. Ngươi cũng đừng oán chúng ta độc ác, hãy hận bản thân không cẩn thận đi!’, từng từ từng chữ đều như dao khắc vào tim ta, ngươi không quên đấy chứ?!”.
Ngô Đại Lực vừa nghe được những lời này liền cứng đờ người, ngã phịch xuống đất, run như cầy sấy hệt như Ngô Nhị Cương.
Bao đại nhân đột nhiên cao giọng quát: “Ngô Đại Lực, Ngô Nhị Cương, nay có ô bồn làm chứng, Lưu Thế Xương làm nhân chứng, các ngươi còn không mau nhận tội?!”.
Hai tên đó làm sao có thể đáp lời, chính là để mặc cho nha dịch cầm cung trạng tới, túm người dậy, run run điểm chỉ vào đó, rồi lại ngã phịch xuống đất cứng đờ.
Bao đại nhân xem qua cung trạng, gật đầu, trầm giọng nói: “Dưới công đường nghe phán quyết. Hai tên Ngô Đại Lực, Ngô Nhị Cương giết người cướp của, đốt xác phi tang, hành vi phạm tội rõ ràng, pháp luật không thể dung thứ, bản phủ phán hai người xử trảm. Người đâu, mang hai tên này áp giải về đại lao, giờ ngọ ngày mai lôi ra chém đầu!”.
Mấy nha dịch liền tiến lên trước, đem huynh đệ Ngô thị toàn thân tê dại mềm nhũn giải đi.
Bao đại nhân nói với ba người dưới công đường: “Lưu Thế Xương, nay bản phủ đã chiếu theo pháp luật định tội hung thủ đã sát hại ngươi, ngươi cũng có thể nhắm mắt nơi cửu tuyền rồi, mau trở về đi”.
Kim Kiền vừa nghe thấy vậy liền thầm thở phào nhẹ nhõm, khấu đầu bái tạ, nhưng vừa mới định vận khinh công rời đi thì chẳng ngờ lại bị Lưu thị túm chặt lấy cánh tay, sống chết thế nào cũng không buông ra, khóc lóc thảm thiết: “Tướng công, tướng công, chàng không thể đi… nếu chàng đi rồi… thiếp… thiếp…”.
Trước tình huống như vậy, Kim Kiền chỉ thấy đầu đau như muốn vỡ, khuôn mặt lộ rõ vẻ lúng túng. Cơ thể bị người phụ nữ này túm chặt, bắt phải đối diện với gương mặt đẫm lệ, đôi mắt nàng chẳng biết nên nhìn vào đâu, chỉ đành đảo quanh bốn phía, liếc trên nhòm dưới.
Đúng lúc quét mắt lên khuôn mặt của lão Bao đang ngồi giữa công đường, Kim Kiền không khỏi chấn động.
Bao đại nhân tuy vẻ mặt vẫn trầm ngâm không có biểu hiện gì, nhưng trong mắt lại lóe lên tia nhìn kỳ lạ, rồi xẹt qua một ý cười, ánh mắt Bao đại nhân hướng sang Công Tôn tiên sinh. Kim Kiền bất giác cũng theo ánh mắt của Bao đại nhân liếc qua Công Tôn tiên sinh, lại thấy Công Tôn tiên sinh khẽ vuốt chòm râu đen nhánh, lông mày nhíu lại, đưa mắt nhìn sang Tứ phẩm hộ vệ áo đỏ.
Chỉ thấy Triển Chiêu sắc mặt nghiêm túc, đôi mắt sáng như sao hơi cụp xuống, lưng thẳng tắp như cán bút, thân hình vẫn bất động, chỉ là ống tay áo màu đỏ khẽ bay lên, Kim Kiền bỗng cảm thấy cơ thể bị vật gì đó bắn trúng hai cái, cả người đột nhiên cứng đờ ra, cổ họng ứ nghẹn, không thể phát ra bất kỳ âm thanh nào, cứ thế mà ngã vật ra đất. Không cần phải giải thích, Kim Kiền biết mình đã bị điểm huyệt.
Lưu thị thấy vậy nhất thời cả kinh, liền bổ nhào lên người Kim Kiền gào khóc.
Kim Kiền đáng thương, bị điểm huyệt, thân thể không cách nào cử động được, miệng cũng không nói được, nhưng thính lực hai tai lại chẳng mảy may suy giảm, chỉ đành nằm thẳng đơ trên đất, khổ sở chịu ma âm xuyên màng nhĩ, thầm nghĩ: Con bà nó, cái đám người “thành tinh” này không biết đã nhìn ra sơ hở của mình từ khi nào, ấy thế mà lại còn đường hoàng lợi dụng mình làm nhân chứng giả nữa chứ! Khai Phong phủ cái khỉ gì, Bao Thanh Thiên, Công Tôn tiên sinh, “Ngự Miêu”, ngoài mặt có vẻ trung hậu thật thà nhưng bên trong thì rặt một phường xảo trá, quỷ quyệt. Hừ hừ… cái con mèo kia nhất định bất mãn với mình chuyện hại hắn phải chịu khổ chịu sở ngâm mình dưới nước, nhân cơ hội này để báo thù đây mà, chết tiệt…
Không biết Lưu thị khóc đã bao lâu, cuối cùng vẫn là Bách Nhi khuyên mẫu thân đứng dậy, cùng sai dịch dìu mẫu thân rời khỏi công đường.
Bao đại nhân cũng lệnh cho người đem Kim Kiền trở về lục phòng, cùng với ô bồn, đặt trong phòng nghỉ của Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu, rồi hạ lệnh bãi đường.
Kể ra cũng rất kỳ lạ, vừa mới về đến lục phòng, huyệt đạo trên người Kim Kiền bỗng nhiên được giải, đương nhiên, Kim Kiền cũng thoáng nhìn thấy một ống tay áo màu đỏ khẽ lướt qua bên ngoài phòng.
Trịnh Tiểu Liễu vốn thấy Kim Kiền cả người cứng đờ, trong lòng vô cùng lo lắng, lúc này nhìn cơ thể Kim Kiền lại cử động được thì mới cảm thấy an tâm, mở miệng nói: “Kim Kiền, cậu thật là lợi hại, đã khiến cho huynh đệ Ngô thị kia phải cúi đầu nhận tội”.
Hai người Kim, Trịnh vừa thấy người nọ bỗng sửng sốt kinh ngạc, cứ ngây ra nhìn người ấy đi đến bên những mảnh vỡ của ô bồn, lặng lẽ nhìn hồi lâu rồi ngẩng lên nhìn hai người Kim, Trịnh hỏi: “Cha đã đi rồi ư?”.
Kim Kiền ngắm khuôn mặt non nớt trước mắt, tuy cố làm ra vẻ bình tĩnh nhưng sâu trong đáy mắt vẫn lộ ra vẻ bi thương và hoảng loạn, môi nàng mấp máy hồi lâu mới trả lời: “Bách Nhi, cha đệ… đi rồi”.
Bách Nhi nghe xong cúi đầu đứng lặng, hai tay nắm chặt lại, một lúc sau mới nói: “Đệ đã đến chậm rồi, nếu không vì lo mẫu thân lại đau lòng khóc lóc lần nữa, Bách Nhi nhất định sẽ đến sớm vài bước…”, ngừng một lát, Bách Nhi ngẩng đầu lên hỏi: “Trước khi cha đi, người có dặn dò gì không?”.
Trịnh Tiểu Liễu nhìn Kim Kiền, sau đó đáp: “Cha đệ dặn đệ hãy chăm sóc tốt cho mẫu thân, phải chăm chỉ đọc sách”.
Bách Nhi nhắm mắt, gật gật đầu, khi mở mắt ra, hai mắt đã sáng lấp lánh như sao, chấp tay thi lễ với Kim Kiền, nói: “Kim Kiền đại ca, Bách Nhi đa tạ huynh giả làm phụ thân lên công đường, thay phụ thân vạch mặt hung thủ”.
Kim Kiền kinh ngạc, buột miệng hỏi: “Sao đệ biết?”.
Ánh sáng rực rỡ sao lưng, nụ cười nhàn nhạt chua chát trên gương mặt cũng không che giấu được những giọt nước mắt trong suốt như thủy tinh chảy dài trên má. Dưới ánh sáng chói lòa, trong một thoáng Kim Kiền cảm thấy cậu bé gầy gò nhỏ nhắn trước mắt mình kia dáng hình lại vững vàng kiên định tựa núi.
Cho đến khi bóng dáng Bách Nhi đã đi xa, Kim Kiền vẫn còn ngẩn ngơ tại chỗ, toàn bộ tâm tư đều đang dặt vào một chuyện: Thời Bắc Tống này chắc là phải có một danh nhân họ Lưu chứ nhỉ.
***
Sau khi vụ án ô bồn kết thúc, Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu vì hiệp lực trợ giúp phá án có công nên được thưởng hai ngày nghỉ ngơi. Trịnh Tiểu Liễu đương nhiên là về nhà bẩm báo sự tích anh hùng của mình với thân nhân, còn Kim Kiền thì ngủ vùi trong xá phòng của Tam ban viện hai ngày liền.
Đến sáng sớm ngày thứ ba, khi Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu đến Tam ban viện báo danh, thì thấy trong công phòng của Tạo ban có hai bị khách không mời.
“Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu, mau đến bái kiến Công Tôn tiên sinh và Lý bổ đầu đi!”, ban đầu Tạo ban vừa thấy hai người Kim, Trịnh liền lập tức kéo hai người đẩy ra giữa phòng.
“Bái kiến Công Tôn tiên sinh, Lý bổ đầu”, Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu cùng chắp tay thi lễ nói.
Chỉ thấy sắc mặt của ban đầu Tạo ban tràn ngập vẻ vui mừng nói: “Hai người các ngươi thật có phúc, lần trước cùng Triển đại nhân xuất môn tra án, Triển đại nhân đối với biểu hiện của hai người cứ tán dương không ngừng, đã bẩm báo lên với Bao đại nhân. Lần này Công Tôn tiên sinh đặc biệt tới để ban bố lệnh điều ban cho hai người”.
Công Tôn tiên sinh cười nói: “Đúng là như thế, cho nên bắt đầu từ hôm nay, hai người các ngươi sẽ đi theo Lý bổ đầu, còn không mau bái kiến Lý bổ đầu?”.
Công Tôn tiên sinh thấy Kim Kiền vẫn đứng ngẩn ra bên cạnh liền hỏi: “Kim Kiền, vì sao ngươi còn chưa bái kiến Lý bổ đầu?”.
Chỉ thấy đầu lông mày của Kim Kiền giật giật, cúi đầu nói: “Công Tôn tiên sinh, thuộc hạ vô đức vô năng, được điều về Khoái ban e rằng không thích hợp cho lắm”.
Lý bổ đầu nghe xong ngược lại cỏn rất vui mừng, gương mặt giãn ra, cười nói: “Triển đại nhân quả nhiên không nói sai, Kim Kiền ngươi thực là khiêm tốn hơn người, ta rất thích những người trẻ tuổi như ngươi đấy. Triển đại nhân đánh giá hai ngươi rất cao, hôm nay vừa gặp quả đúng như thế”.
Đầu lông mày Kim Kiền sắp dính cả vào nhau, vừa mới định chắp tay từ chối thì lại bị Công Tôn tiên sinh cắt ngang.
“Kim Kiền, nếu Triển hộ vệ đã ra sức đề cử, ngươi không nên chối từ nữa”.
“…Vâng, Kim Kiền bái kiến Lý bổ đầu”
“Tốt, tốt”, Lý bổ đầu sảng khoái cười ha hả.
Công Tôn tiên sinh gật đầu, đứng dậy bước ra cửa những muốn rời đi, nhưng vừa đến cửa thì quay người lại hỏi Kim Kiền: “Kim Kiền, độc Triển hộ vệ trúng tại trấn Lưu Gia, chính là do ngươi giải?”.
Tinh thần Kim Kiền liền rung lên một cái, lập tức đáp: “Chính là do thuộc hạ giải”.
Công Tôn tiên sinh lại hỏi: “Lẽ nào ngươi từng nghiên cứu qua về y thuật và dược thuật?”.
Mồ hôi lạnh túa ra sau lưng Kim Kiền, nàng cao giọng trả lời: “Khi thuộc hạ còn là ăn mày đã từng được một lão ăn mày dạy cho vài cách dùng thảo dược, cũng coi như biết sơ sơ chút ít”.
Công Tôn tiên sinh đánh giá Kim Kiền mấy lần liền, nói: “Ngươi chỉ học sơ sơ mà lại có thể giải được thi độc?”.
“Đó là bởi vì ăn mày nhiều khi đói khát không thể chịu nổi, có phải lúc ăn phải thịt thối bị người ta vứt đi, không ít người trúng phải thi độc, thế nên thuộc hạ mới biết cách giải”.
Công Tôn tiên sinh nghe xong những lời này mới chậm rãi gật đầu, vuốt râu cười nói: “Nói như thế thì Kim Kiền ngươi thật ra rất có tư chất. Sau này nếu có thời gian rảnh rỗi, đừng ngại tới tìm ta nói chuyện, trong phòng ta cũng có một số y thư, ngươi có thể tìm đọc”.
Kim Kiền càng vùi đầu xuống thật thấp, kiên trì nói: “Thuộc hạ cảm tạ tiên sinh”
Công Tôn tiên sinh lúc này mới hài lòng, ung dung rời đi.
Đợi đến khi Công Tôn tiên sinh đi xa, Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu liền bái biệt ban đầu Tạo ban, theo Lý bổ đầu đến Bổ phòng của Khoái ban.
Khoái ban dù sao cũng là nơi tập trung tinh anh của Tam ban, riêng số lượng Bổ phòng chuyên dụng cho Khoái ban cũng đã bằng số lượng công phòng của hai ban kia gộp lại. Bài trí trong Bổ phòng cũng khác Tạo ban, trên tường treo vô số tranh vẽ binh khí các loại, trên bàn đầy những bức họa phạm nhân, những kẻ bị truy nã, tất cả đều được sắp xếp tuần tự, đâu ra đấy.
Lý bổ đầu ngồi chính giữa Bổ phòng, nói cho hai người họ biết về chức trách của Khoái ban.
Giờ mão sáng sớm, phải đến võ trường để huấn luyện, lúc bình thường phải đi tuần trong thành Biện Lương để duy trì và đảm bảo trị an trong kinh đô, truy bắt kẻ phạm tội, nhân tiện giữ gìn bộ mặt của kinh thành, rồi phải ra ngoài tới các địa phương khác để tróc nã phạm nhân, bắt cường đạo, đạo chích, kẻ trộm; hừ hừ, buổi tối còn phải luân phiên mà đứng gác, bảo vệ an toàn cho Khai Phong phủ… Trời ơi, đây mà là công việc cho người làm à?
Nhưng điều quan trọng nhất chính là, tiền lương chỉ tăng thêm có mười lượng bạc…
Kim Kiền khuôn mặt co rúm, méo mó, vặn vẹo, lòng thầm hét lên: Con mèo thối, quả này tôi và anh kết thù to rồi đấy, đừng hòng tôi để yên cho anh!!!
Cũng đúng lúc này, Triển đại nhân, Ngự tiền tứ phẩm đới đao hộ vệ, đang đi tuần trong thành Đông Kinh Biện Lương, trung bình cứ hai phút đồng hồ lại hắt hơi một lần, mãi mà không dứt.