Khánh Kỵ hứ môt tiếng to, nghiêm mặt nói:
"Trường Khanh, ngươi hãy nhớ kỹ, cho dù khanh một lòng trung thành, xuất phát từ lòng ngay thật, nhưng nếu khanh không nói trực tiếp với quả nhân, dùng mưu dùng kế, tự cho rằng có thể trêu chọc quả nhân như giỡn trên lòng bàn tay, khanh cũng không thoát nổi tội xem thường quả nhân đâu, một khi bị phát hiện, quả nhân tuyệt đối không tha !"
Khánh Kỵ giọng nói sắc mặc đều nghiêm khắc, Tôn Vũ nghe xong mặt mày biến sắc, vội vàng khấu đầu vâng dạ, trên trán đã dần dần xuất hiên mồ hôi. Khánh Kỵ lúc này mới phất tay áo cho hắn lui.
Người làm vua đại kỵ, là bị người khác khống chế. Một người vốn trung thành, nhưng nếu dung túng quá lâu, dần dần cũng khó tránh vì ngạo mạn mà nảy sinh dã tâm. Cho nên một khi có đầu mối, nhất định phải ngăn chặn kịp thời, không thể vì những nhận định trong lịch sử đối với Tôn Vũ mà sơ ý được.
Ngày Chu công hoảng sợ vì lời đồn đại, còn Vương Mãng lại được lòng người, nếu năm xưa đã chết rồi, một đời là gian hay trung nào ai biết. Ngay cả trong sử sách đã có nhận định đối với nhân vật nào đó, và định luận này là thật, thì cũng chỉ là kết luận về một mặt nào đó trong sự phát triển của lịch sử mà thôi.
Nay lịch sử đã có thay đổi, nếu hắn dùng người mà đều dựa vào những gì sử sách chép lại, trong sử sách nói hắn là trung, thì dùng mà không nghi, không có quản thúc, không có đề phòng, vậy thì thật đáng thương. Cái phức tạp nhất của tính cách là, dễ dành xuôi theo sự thay đổi của địa vị, hoàn cảnh mà thay đổi, khi lịch sử thay đổi, những người mà lịch sử đã có nhận định cũng có khả năng đi trên một đường đời khác hoàn toàn, Khánh Kỵ không mong một Tôn Vũ tuổi còn trẻ đã nắm đại quyền trong tay sẽ có một ngày vì sự dung túng của hắn, mà đi trên một con đường hoàn toàn khác.
Tôn Vũ không ngờ rằng việc hắn thông qua Thái Chúc và Tông Bá, dùng một số thủ đoạn uyển chuyển để đại vương chịu đưa sính lễ đến cầu thân công chúa nước Tần lại khiến Khánh Kỵ tức giận đến thế, từ lúc hắn đi theo Khánh Kỵ, Khánh Kỵ đối với hắn đều theo lễ nghĩa, đây là lần đầu tiên Khánh Kỵ nổi trận lôi đình với hắn. Tôn Vũ vâng vâng dạ dạ lui ra khỏi cửa, một cơn gió mát thổi quá, lúc này hắn mới phát hiện áo hắn đã ướt đẫm mồ hôi, Tôn Vũ bất giác ngấm ngầm cảnh giác.
Trên điện, Khánh Kỵ lại hừ một tiếng, lại nghĩ đến việc Câu Tiễn đột nhiên đi sứ: "Câu Tiễn? Tên cao thủ tuỳ cơ ứng biến, mặt dày và lòng dạ đen tối này, lại không biết sống chết tự đến nạp mạng, tâm trạng của quả nhân không được tốt, thật đúng lúc có thể lấy hắn ra mà tiêu khiển, tiêu khiển !".
Gió thu xào xạc, trong Cô Tô thành trời đã bắt đầu se lạnh. Lúc này không có mùa đông ấm, ở phía nam vào mùa đông thường có tuyết rơi, nhưng vào mùa thu, tuy bốn mùa ở đây không rõ ràng như ở phương bắc, nhưng cũng cảm nhận được cái lạnh của khí trời, những người đi ra ngoài cũng nên khoác thêm một chiếc áo.
Đoàn dù lọng vương giá của Khánh Kỵ kéo dài từ con đường lớn trong thành uốn lượn theo hướng bắc về phía Tề Môn. Khánh Kỵ thường xuất cung tuần du, nên cảnh tượng này đã trở thành chuyện thường ngày ở Cô Tô, các bá tánh trong thành cũng đã quen mắt, vì vậy trên phố cũng rất trật tự, không bị hỗn loạn. Chỉ là khi đoàn dù lọng đi qua, thì họ bớt ồn ào huyên náo hơn.
Phía bắc Cô Tô thành có hai cửa thành, một là Tề Môn, một là Bình Môn, tên của hai cửa thành này ghép lại sẽ là "Bình Tề", nước Tề là đông phương đệ nhất đại quốc, Khi Hạp Lư xưng vương, đã xây đại thành Cô Tô, cố ý đặt cái tên này cho hai cửa phía bắc, ý đồ của hắn đã rõ ràng, nhưng nay đại thành Cô Tô vẫn còn, chỉ là chủ nhân của thành đã là người khác rồi.
Khánh Kỵ tha thiết căn dặn Diêu Quang và Tiểu Man:
"Diêu Quang, Tiểu Man, khí trời đã bắt đầu se lạnh, càng đi về phía bắc, khí trời sẽ càng lạnh, qua sông rồi, khí hậu ở phía nam lại khác hoàn toàn, các nàng nhớ mặc thêm áo ấm, tránh dọc đường lại nhiễm phong hàn."
Ngoài Tề Môn, cành dương liễu đong đưa, bên dưới là nước hồ xanh biếc, phản chiếu một bầu trời đầy mây trắng và bóng dáng lung linh của ba người, nam thì tráng kiện, nữ thì thướt tha, như cùng hòa vào cảnh đẹp của đất trời. Lời của Khánh Kỵ làm cho Thúc Tôn Diêu Quang nghĩ đến nỗi sầu biệt ly, đôi mắt nàng đỏ gay, môi nàng khẽ run run, như sắp rơi lệ.
Quý Tôn Tiểu Man lại nhìn Khánh Kỵ với ánh mắt xinh đẹp, hết kiên nhẫn nói:
"Thiếp nói đại vương à. Hình như thiếp và Diêu Quang tỷ mới là người phương bắc mà, phía bắc đại giang là nóng hay là lạnh, hai thiếp còn rõ hơn chàng, chuyện này cũng cần chàng nhắc nhở sao."
"Nha đầu thúi, để ta bày tỏ một chút chân tình nàng sẽ chết à !"
Khánh Kỵ dở khóc dở cười tức giận với nàng ấy.
Quý Tôn Tiểu Man ối dào một tiếng. Lấy tay che đầu nói:
"Chết thì không đến nỗi. Nhưng nghe một đại nam nhân như chàng ăn nói lôi thôi như thế, thiếp cảm thấy ớn lạnh quá. Diêu Quang tỷ tỷ, tỷ có muốn khoác thêm áo không ?"
Thúc Tôn Diêu Quang bị trêu đến nỗi cười "hi hi", tâm trạng đã đỡ hơn nhiều:
"Đại vương, thiếp và Tiểu Man phải lên đường đây. Hai thiếp… sẽ ở nước Lỗ chờ tin của Đại Vương."
"Nàng yên tâm, mọi chuyện ta sẽ an bài thỏa đáng",
Khánh Kỵ giúp nàng buộc chặt lại chiếc áo khoác, nhẹ giọng nói:
"Lần này về nước Lỗ, trước tiên sẽ phải qua Đông Di, Đông Di và nước Ngô ta từ lâu đã có quan hệ mật thiết với nhau. Thấy trên xe có cờ phướn của nước Ngô, họ sẽ không gây khó dễ cho hai nàng. Đợi khi đến nước Lỗ, tự sẽ có người thường xuyên giữ liên lạc với hai nàng."
Khánh Kỵ cười nói:
"Mạng lưới cửa tiệm của Thành gia rất lớn, chỉ cần chỉnh đốn lại một chút, là đã có thể lập nên một đội ngũ mật thám xuất sắc, ta đang chuẩn bị lấy đó để làm nền móng, tạo dựng cho nước Ngô một mạng lưới tin tức rộng khắp thiên hạ, nay dùng để trao đổi tin tức với nàng, chỉ là dùng thử con dao mổ trâu này mà thôi. Nhất định sẽ không thành vấn đề."
Thúc Tôn Diêu Quang buồn bã liếc hắn, nhẹ nhàng trách mắng:
"Chàng rõ biết thiếp không phải ý này mà." Tiếc là giọng nàng quá nhỏ, cũng chỉ có mình nàng nghe được.
Một con cá nhảy lên khỏi mặt nước, thân uống cong như lưỡi câu, nhảy khỏi mặt nước rồi lại chui đầu vào trong nước, trên mặt nước sóng gợn lăn tăn.
"Cá nhỏ mong nước trong, thiếp mong tin chàng sớm đến. Đại vương, thần thiếp… xin cáo từ…"
Thúc Tôn Diêu Quang lưu luyến nhìn hắn, tay nàng nắm lấy tay của Quý Tôn Tiểu Man. Từ từ bước lên chiếc xe đang đứng chờ họ để xuất phát.
"Bảo trọng !"
Khánh Kỵ nhẹ nhàng chấp tay. Mắt nhìn họ rời khỏi. Hơn hai trăm kỵ sĩ toàn bộ vũ trang bảo vệ chiếc xe ngựa của họ đang lăn bánh trên đường về hướng bắc, Khánh Kỵ đứng dưới bóng cây, cho đến khi xe ngựa của họ khuất xa tầm mắt.
Khánh Kỵ vẫn chưa quay đi, đôi mắt vẫn nhìn về phía xa xa, bỗng nhiên hô to:
"Thành Tú !"
"Hả ! Có vi thần !"
Thánh Tú bất thình lình được hắn gọi, chút sau mới đáp lại, bèn kéo vạt áo khoác, vội vàng chạy ra từ trong đám đông. Text được lấy tại truyenyy[.c]om
"Diêu Quang và Tiểu Man cô nương lần này trở về Lỗ… "
"Đại vương xin yên tâm, vi thần đã phái người bàn bạc với bên Đông Di, họ sẽ không gây khó dễ cho hai vị cô nương này. Tại Đông Di, hiện nay đều dưới quyền cai trị của Đông Di nữ vương, bên trong có rất nhiều lưu manh thổ phỉ, nên vì đảm bảo an toàn, nữ vương Đông Di sẽ phái hơn trăm thị vệ đi theo hộ tống, những người này đều là Đông Di tộc thần tiễn thủ, họ sẽ hộ tống hai vị cô nương cho đến khi an toàn vào đến biên cương nước Lỗ."
"Ừm, Vậy tại nước Lỗ…"
"Tại nước Lỗ cũng không thành vấn đề, thần đã phái người xuất phát trước hai vị cô nương, thông báo với Quý thị và Thúc thị hành trình của hai vị cô nương, Dương Hổ đại nhân sẽ đích thân sắp xếp người ngựa ra tiếp ứng, sẽ không để đám người Triển Chích và Công Tôn Bất Nữu thừa cơ làm loạn."
"Vua Lỗ Cơ Tống lâu nay vẫn rất yêu thích Tiểu Man, quả nhân lo là hắn vì đố kỵ mà sinh hận, sẽ giở một số thủ đoạn, nên khi hai vị cô nương về đến nước Lỗ, không có nghĩa là mọi phiền phức đều đã hết. Về phía nước Lỗ nếu có động tĩnh gì, ngươi phải kịp thời báo cho quả nhân biết, tránh lỡ đại sự."
"Vâng vâng, xin đại vương yên tâm. Trong số hạ nhân ở phủ Thúc Tôn và Quý Tôn, đều có tai mắt của thần, trong cung vua Lỗ, trước mắt cũng đang tiến hành đồng thời hai mặt, một mặt dùng kim ngân mua chuộc quản sự trong cung, một mặt sắp xếp cho người của ta nhập cung làm tạp dịch, chỉ cần bên đó có động tĩnh gì, sẽ không qua khỏi tai mắt của đại vương."
Khánh Kỵ đột nhiên quay người lại, đôi mắt nhìn chằm chằm vào Thành Tú, Thành Tú chợt lui lại một bước, thấp thỏm hỏi:
"Đại vương… đại vương thấy có chỗ nào chưa được hài lòng chăng ?"
Khánh Kỵ mỉm cười, nói:
"Không, chỉ là trong thời gian ngắn, khanh đã có thể sắp xếp ổn thỏa những việc này, quả nhân rất vui mừng. Đúng rồi, việc bán châu báu, đổi lương thực, và vận chuyển số lượng thực này về nước đã làm đến đâu rồi ?"
Thành Tú nuốt nước bọt, nói:
"Vi thần vẫn đang tiến hành, việc bán châu báu, trước tiên phải tìm được người mua thích hợp, đồng thời, hiện nay chiến sự căng thẳng, ở các nước lương thực thuộc loại hàng tiêu thụ mạnh, lương thực mà Thành Gia dự trữ phải thông qua rất nhiều khâu mới chuyển đến được nước Ngô, dọc đường phải kiểm lại số lượng, khai thông, an bài, và nhiều khâu khác nữa, mọi việc đều không được sơ sót, không để xảy ra nhầm lẫn, vì vậy việc không thể gấp được.
Vả lại, dùng tiền bán châu báu để mua tiếp lương thực tại nơi bán châu báu. Cũng phải làm cẩn thận mới thành. Đại vương đã ủy thác cho thần trách nhiệm trọng đại, Thành Tú không dám chậm trễ, những ngày này chạy qua chạy lại trong cung để kiểm số châu báu, tìm cách bán ra, vồi vận chuyển lương thực, thần bận đến nỗi những việc khác lo không xuể nữa. Hiện nay tin tức mới được đưa ra, tin rằng chỉ trong vài ngày sẽ có thể nhận được tin phản hồi từ chủ hiệu buôn ở các nơi."
"Ồ… bận đến nỗi những việc khác lo không xuể nữa à ?"
Khánh Kỵ chớp mắt, cười khó hiểu:
"Thành khanh quên ăn quên ngủ, cả ngày bận việc bán châu báu và chuyển lương thực, trung thành đáng khen. Đợi đến khi lương thực lần lượt được chuyển về nước, là khanh đã vì nước Ngô lập được đại công. Quả nhân tự sẽ có phong thưởng."
Thành Tú vừa nghe mừng rỡ ra mặt, vội hành lễ nói:
"Tạ đại vương, đây là bổn phận của hạ thần. Đại vương khen ngợi như vậy, thần nguyện dốc hết tâm sức, nguyện làm tôi tớ cho đại vương."
"Vậy… về phía tỷ tỷ của ngươi, đã tìm được tung tích của nàng ấy chưa ?"
"Tỷ tỷ ?"
Thành Tú lặng người một hồi. Như là mới vừa nhớ ra vậy, lắp bắp nói:
"Vẫn… vẫn chưa ạ…"
"Chưa à ?"
Khánh Kỵ hầm hầm giận dữ:
"Xem bộ dạng úp úp mở mở của khanh, khanh vốn không hề đi tìm ? Mặc dù quốc sự đang gấp, nhưng tỷ tỷ khanh sống chết chưa rõ, tung tích chưa biết, mà khanh lại có thể thản nhiên, máu lạnh đến thế, thật khiến người phải chê cười !"
"Không phải, ta là… đại vương… vi thần…"
Khánh Kỵ nghiêm giọng nói:
" Im miệng, người có đức có tài thì là trụ cột quốc gia, có đức mà không tài là hiền lương. Không tài không đức thì chỉ là người thường, mà có tài lại không có đức, lại là mối nguy cho quốc gia. Nếu khanh vì ham mê quyền vị, có thể không lo cho tỷ tỷ, có thể máu lạnh bạc tình như thế, quả nhân còn dám dùng khanh sao ?
Thành Tú, khanh nghe rõ cho quả nhân, chuyện ở nước Lỗ, khanh không được sơ sót điều chi, việc mua lương thực, liên quan đến đời sống bá tánh nước Ngô, càng không thể có sai sót. Còn Thành Bích phu nhân… khanh cũng phải dốc sức tìm kiếm, quả nhân hạn cho khanh trong vòng một tháng, đến lúc đó nếu vẫn chưa có tin tức của Thành Bích phu nhân, hừm !"
Khánh Kỵ phất tay áo bỏ đi, Thành Tú bị hắn quở mắng đến không dám ngẩng đầu lên, đứng như trời trồng ở đó. Khánh Kỵ lên xe ngựa nghênh ngang bỏ đi. Xe ngựa vừa khởi động, bụi bay mù mịt, bao nhiêu dũng sĩ mặc giáp chạy theo sau.
Thành Tú đợi đến khi xe ngựa của hắn đã khuất xa, mới từ từ thẳng lưng lên, đưa vạt áo lên lau mồ hôi đang vả ra trên trán, lẩm bẩm nói:
"Lúc nãy còn mưa thuận gió hòa, đột nhiên lại nổi trận lôi đình, tỷ tỷ nói quả không sai, bên cạnh vua như bên cạnh hổ !"
Sau khi Khánh Kỵ tiễn Diêu Quang và Tiểu Man xong, mỗi ngày hắn đều triệu tập quần thần vào nội đình nghị sự, buổi sáng thương nghị dân chính với Tư Đồ, Tư Không, Tư Khấu và các quan viên khác, buổi chiều chủ yếu thương nghị quân sự với Tư Mã, Thiếu Phủ, Võ Khố, Vệ Binh và các võ quan. Tin Khánh Kỵ đại vương mong cải cách chính trị cũ, ban hành luật pháp mới ngay cả những bá tánh bình thường trong thành đều có nghe qua.
Cuối thời Xuân Thu, chế độ cũ đã sụp đổ, các nước đều đang tham vấn sách lược trị quốc mới, nên tư tưởng mới xuất hiện nhiều như măng xuân mọc sau cơn mưa, mức độ cởi mở trong tư tưởng của mọi người cao hơn, bất cứ học thuyết nào, đều có thị trường của nó, đều có người đồng tình. Các nước không trước thì sau cũng đều áp dụng biến pháp mới, nguyên nhân thất bại của nhiều quốc gia, là do tân chính không thích hợp, là do những người cầm quyền bị phản đối.
Khánh Kỵ lại không gặp khó khăn ở phương diện này. Trước tiên, hắn có ký ức và nhận thức của Tịch Bân, tuy Tịch Bân không phải là chính trị gia, tư tưởng gia gì, nhưng lại có kiến thức của hai ngàn năm, hiểu rõ lịch trình phát triển của lịch sử, do vậy hắn sẽ không chọn những quan niệm trị quốc không hợp thời, cũng sẽ không thực hiện những cải cách vượt quá những điều kiện cho phép của thời đại như Vương Mãng của đời Hán.
Một Khánh Kỵ vượt thời gian đến thời Xuân Thu này, mỗi lần nghĩ đến những việc mà Vương Mãng đã làm , kết hợp với những kinh nghiệm của mình, hắn cũng rất nghi ngờ không biết tên này có phải cũng đến từ thời đại khác như hắn không.
Vương Mãng là hoàng thích nhà Hán, chưa từng chịu sự ức hiếp của ngoại tộc, nhưng bản năng hắn lại thù ghét Hung Nô và roi gậy, hắn đã từng bất chấp tất cả để thảo phạt Hung Nô, từ sau thời Hán Võ, hắn là người tích cực nhất. Là một đại hiền nhân được những nho sĩ xem trọng và kính phục, hắn rất dễ tiếp nhận những sự vật mới, không lấy làm lạ với khoa học thực nghiệm và phát minh sáng tạo, nên ở thời Vương Mãng, khoa học kỹ thuật cổ đại của nước ta phát triển rất nhanh. Khi nghe nói có người chế tạo khí cụ bay, có thể mang người đi xa mấy trăm bước, hắn còn lấy danh nghĩa của hoàng đế mà triệu kiến, lấy tiền ủng hộ người đó tiếp tục thực nghiệm.
Khánh Kỵ đã phát minh máy xay bằng thủy lực và cánh buồm, còn Vương Mãng phát minh thước đo, thống nhất cách đo trong cả nước, từ nguyên lý, tính năng, và cách dùng, loại thước này rất giống với thước đo hiện đại, đã xuất hiện sớm hơn so với phương tây đến hơn 1700 năm.
Vả lại Vương Mãng rất căm ghét chế độ nô lệ. Chú trọng đến cuộc sống của bá tánh, xem trọng giáo dục, thực hiện cải cách ruộng đất và quốc hữu hóa ruộng đất, thực hiện chính sách cho vay và cải cách chính sách tiền tệ, đã rất tự tin khi đề ra lý luận kế hoạch kinh tế. Bình ổn giá cả, điều tiết thị trường, thực hiện gói đầu hàng hóa, trưng thu thuế. Và rất nhiều chính sách rất giống với chính sách thời hiện đại.
Theo Khánh Kỵ thấy, những nội dung biến pháp mà Vương Mãng thực hiện không phải là vô lý, mà là quá tiên tiến, hoàn toàn không nghĩ đến sức sản xuất và điều kiện xã hội đương thời, các cải cách của của Vương Mãng, khiến cho người đã trải qua những điều tương tự Vương Mãng như Khánh Kỵ, không khỏi nghi ngờ hắn cũng là người đến từ thời đại khác.
Nhưng khi nghĩ đến Vương Mãng đã từng chơi ác đổi tên "Hung Nô Đơn Vu" thành "Giáng Nô Phục Vu", đổi "Cao Câu Lệ" thành "Hạ Câu Lệ", thú vui này…, nghĩ lại tên Vương Mãng này quả thật đến từ thời đại khác, và cũng là tên thiếu thực tiễn xã hội, cũng chỉ như một tên học sinh cao trung quá lý tưởng hóa và vẫn còn tánh tình trẻ con.
Nhờ có vết xe đổ của hắn. Khánh Kỵ đương nhiên sẽ không dại dột tiến hành những cuộc cải cách nhảy vọt như thế, các nội dung biến pháp tuy nhỏ nhưng cụ thể của Khánh Kỵ đều rất thích hợp với nền chính trị cuối thời Xuân Thu này, chỉ là theo kiến thức của hắn, giúp quá trình phát triển của nước Ngô ít phải đi đường vòng hơn. Do vậy, các triều thần cũng dễ dàng tiếp thu.
Ngoài ra, Khánh Kỵ không phải theo con đường bình thường mà thuận lợi đăng cơ, mà là dựa vào bản thân để giành lại giang sơn, như vậy tiếng tăm và quyền lực của hắn, khiến nhiều cựu thần dù không đồng ý với cách làm của hắn, cũng không dám phản đối. Người duy nhất có khả năng gây áp lực cho hắn chỉ có Diên Lăng Quý Tử, nhưng vị vương thúc tổ này lại không màng việc chính trị, sau trận chiến ở Cô Tô thúc đã trở về Diên Lăng, không xuất đầu lộ diện nữa, nên cả nước Ngô không còn ai có thể phản kháng ý chí của Khánh Kỵ
Khánh Kỵ không hề nhắm mắt làm liều, không chỉ ở trong cung tiến hành thảo luận, đợi khi những cải cách mới đã được hình thành, hắn bèn dẫn theo những triều thần có liên quan bắt đầu thực hiện điều tra đối với các điều kiện cơ bản và thực thi cơ bản của nước Ngô. Ngày hôm nay, hắn và Tư Mã, Thiếu Phủ, Võ Khố, Binh Mã và các quan viên có liên quan khảo sát tình hình chế tạo binh khí của nước Ngô, nên đã đến Nhâm gia nổi tiếng là đệ nhất gia chế tạo binh khí của nước Ngô này.
Đại Vương nước Ngô đích thân đến thăm Nhâm gia bảo. Ngày hôm nay đại khái là ngày vinh dự nhất của Nhâm gia kể từ khi lập nghiệp ở nước Ngô, tin rằng ngày này sẽ được xem là sự kiện trọng đại không thể quên và sẽ được ghi chép trong tộc phổ của Nhâm gia. Tỷ muội Nhâm Nhược Tích đã trở về Thành Bảo trước hắn một ngày, để chuẩn bị đại lễ cho việc tiếp đón đại vương, các chi tiết không nói cũng biết, nhưng Khánh Kỵ lại đến vội vàng, đến Nhâm gia bảo chỉ ngồi nghỉ ngơi một lúc, gặp mặt những nhân vật quan trọng trong Nhâm gia, sau đó lập tức ngồi dậy đi đến khảo sát phòng chế tạo binh khí, thật là uổng phí sự sắp xếp chu đáo của Nhâm gia.
Nhâm gia bảo được xây dựa vào lưng núi, một bên là thành, một bên là núi. Ở phía sau núi đều là những tác phường rộng lớn. Những đệ tử Nhâm gia đã giải giáp quy điền, đều đang vội vã sản xuất, đâu đâu cũng thấy lửa đỏ rực.
Trước khi đi đến các tác phường, Nhâm Nhược Tích đã đi thay xiêm y, nàng mặc một bộ võ phục, dáng vẻ hiên ngang, vô cùng đẹp đẽ. Nàng đi phía trước, theo sau nàng là Khánh Kỵ, Tôn Vũ, Anh Đào, và một số võ tướng trong triều, nàng giới thiệu với họ công dụng của từng tác phường.
"Đại Vương, những binh khí do Nhâm gia sản xuất sở dĩ có thể khác với mọi nơi , chủ yếu là có sự độc đáo trong khâu luyện và đúc, khiến chất lượng được nâng cao, không dễ bị gãy nát, nên rất được võ sĩ nước xem trọng."
Thuật luyện kim của Nhâm gia là nguyên nhân chủ yếu có thể đưa Nhâm gia trở thành đại gia chế tạo binh khí nổi danh khắp thiên hạ, đấy là độc môn bí truyền của Nhâm gia, Nhâm Nhược Tích đương nhiên không dễ gì tiết lộ ra, nên sau khi giới thiệu sơ qua, nàng bèn chuyển đề tài nói:
"Việc sản xuất binh khí của Nhâm gia, chủ yếu phân làm ba phương diện như cận công, viễn xạ và vệ thể."
"Điểm khác nhau giữa việc chế tạo binh khí của Nhâm gia và các nước khác là, ở phương bắc có riêng một tác phường để chế tạo chiến xa, nhưng do nhu cầu của nước Ngô ta đối với chiến xa không cao, nên không hề lập một tác phường riêng. Còn như những vũ khí để công thủ thành trì, xưa nay đều rất thô sơ và nặng nề, không tiện vận chuyển đường dài, vả lại chỉ cần lấy vật liệu tại chỗ, người thợ bình thường đều có thể làm được, do vậy Nhâm gia cũng không sản xuất.
Các vũ khí cận công của Nhâm gia, chủ yếu là kiếm, kích, mâu, thương. Các vũ khí viễn công chủ yếu là cung, nỏ, mũi kích. Vũ khí vệ thể chủ yếu là giáp, mũ, thuẫn. Trong đó có nỏ đang được cải tạo theo loại nỏ mà đại vương đem từ nước Sở về, tin rằng sau khi cải tạo thành công, ta có thể sản xuất hàng loạt, uy lực sát thương cũng không thua kém gì nỏ nước Sở, nhưng chất lượng sẽ tốt hơn.
Ngoài ra, Khi đại vương bao vây Cô Tô đã dùng loại vũ khí mới là máy bắn đá, Nhược Tích cũng đã cho thợ làm một chiếc giống vậy, hiện đang nghiên cứu nên chế tạo như thế nào để việc lắp ráp các bộ phận được nhanh hơn, một khi thành công, sẽ bắt đầu chế tạo. Đương nhiên, loại máy bắn đá mà Nhâm gia chế tạo, sẽ nhỏ hơn nhiều so với cái dùng lúc công thành, dễ dàng mang theo, và tháo ráp. Là một loại vũ khí viễn công trên chiến trường, mà khi sắp tấn công có thể bắn những viên đá nhỏ vào địch quân, tin rằng sức sát thương và phạm vi sát thương của mỗi chiếc sẽ không kém gì hơn trăm cây nỏ được bắn cùng lúc."
Tôn Vũ và Anh Đào nhìn nhau, trong ánh mắt họ đều lóe lên sự vui mừng.
Khánh Kỵ gật đầu, đi theo Nhâm Nhược Tích tiếp tục xem xét, cho đến khi đi hết các tác phường. Về đến đại sảnh, Khánh Kỵ nói:
"Các tác phường của Nhâm gia kỹ thuật tinh xảo, với quy mô lớn như thế, số lượng binh khí sản xuất cũng tương đối khả quan, nhưng quả nhân cho rằng, có một vài điểm vẫn có thể cải thiện hơn, quả nhân có hai ý này, ha ha, quả nhân chỉ là người ngoài ngành, cũng chẳng biết nói có hợp lý không…"
Nhâm Nhược Tích có vẻ không phục nói:
"Xin đại vương chỉ giáo, dân nữ nguyện được lắng nghe."
Nói đến cùng. Nàng ấy mới là cao thủ trong ngành này, tuy nói Khánh Kỵ là đại vương, lại là người nam nhân mà nàng yêu, nhưng nàng không tin rằng Khánh Kỵ chỉ đi tham quan các tác phường của Nhâm gia một vòng, lại có thể nêu ra được những sai sót, nêu được những quá trình có thể cải tiến để ưu việt hóa hơn đối với ngành nghề mà Nhâm gia lấy làm tự hào này.
Khánh Kỵ cười, nói:
"Thứ nhất, ta thấy ở mỗi tác phường, đều có rất nhiều thợ cả. Mỗi thợ cả, lại có rất nhiều trợ thủ, đồ đệ giúp họ hoàn thành một món binh khí. Ví dụ như cây mâu, mũi mâu cần được rèn, luyện, mài. Thân mâu, cần chọn một cây gỗ bản dẹp tốt, cắt gọt thành hình bát lăng, sau đó dùng nan tre đã qua tám lần nước sôi, dán lên bát lăng, dùng da trâu buộc chặt lại, tiếp đó mới gắn mũi mâu ở trên, quấn chặt mũi mâu lại. Sau đó là sơn, ghi tên, sửa chữa…, trong các quá trình này, đều do một vị thợ cả và các trợ thủ, đồ đệ của hắn cùng nhau hoàn thành đúng không ?"
"Đúng vậy",
Đôi mắt xinh đẹp của Nhâm Nhược Tích nhìn hắn, không biết hắn lại tìm ra được chỗ sai sót nào.
"Ừm, những công việc theo thứ tự này, nếu từ một người học nghề, đến khi trở thành thợ cả, có khả năng dẫn dắt một đám đồ đệ, tự mình sản xuất, ước chừng mất khoảng bao nhiêu thời gian ?"
Nhược Tích không cần suy nghĩ đã trả lời:
"Nếu muốn trở thành một thợ cả, ít nhất cũng cần bảy đến tám năm trở lên, nếu muốn tay nghề được thuần thục, thì cần lâu hơn, nên những người thợ cả, đều được trả công rất cao."
Khánh Kỵ gật đầu nói:
"Vậy, nếu tập hợp các thợ cả độc lập tác chiến này lại, các khâu rèn, luyện, và mài sẽ do ba vị thợ cả mỗi người phụ trách một khâu, các khâu làm thân mâu như cắt gọt, dán nan tre, buộc lại bằng da, sơn, gắn mũi mâu, ghi tên và sữa chửa, cũng sẽ do một vị thợ cả phụ trách, như vậy xem ra cũng như tập hợp mấy vị thợ cả cùng nhau chế tạo một cây mâu, nhưng tốc độ không phải là nhanh hơn so với việc mỗi thợ cả đều phải bắt đầu làm từ bước đầu tiên, tự mình làm ra cây mâu sao ?"
Nhâm Nhược Tích nghe đến đây, đôi mắt chợt sáng lên, mừng rỡ nhìn Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ nói tiếp:
"Mỗi vị thợ cả đều phụ trách một khâu, người rèn thì lo rèn, người mài thì lo mài, vậy thì các đồ đệ của họ, chỉ học được một khâu mà thôi, còn cần đến bảy hay tám năm mới có thể tự mình làm sao ? Nếu tiếp tục duy trì chế độ như thế, sau này cho dù có làm nên bao nhiêu vũ khí lợi hại, mỗi thợ cả chỉ tinh thông sở trường của mình, vậy thì ngay cả khi tất cả họ đều bỏ trốn. thì có phải lo lắng họ sẽ tiết lộ bí quyết gia truyền không ?"
Nhâm Nhược Tích nghe đến đây, ngực nàng phập phồng xúc động.
Khánh Kỵ càng nói càng vui, tiếp tục:
"Còn nữa, mỗi thợ cả khi tự mình chế tạo, đều có thói quen và đặc điểm riêng của mỗi người, những vũ khí làm ra dù ít hay nhiều, đều có sai lệch, cái do người này làm ra, rất khó để người kia dùng được. nay nếu cho họ phối hợp cùng làm, bất luận là cách rèn hay bất cứ khâu nào, cũng có thể quy thành một tiêu chuẩn thống nhất, như vậy vật mà một khâu làm ra, mới có thể để thợ cả của khâu tiếp theo tiếp tục chế tạo. Cứ thế, cùng một vũ khí thước tấc, hình thái, trọng lượng và quy cách sẽ không có sai biệt lớn, một món vũ khí nếu bị hư hại phần nào, lại có thể cùng một vũ khí khác bị hư hại ở phần khác hợp lại, mà không cần phải chuyển ra hỏi chiến trường, lại đo ni đóng giày cho nó bộ phận mới. Quả nhân gọi cách này là, tiêu chuẩn hóa sản xuất, chế tạo theo hình thức nước chảy, nàng cảm thấy… có thể làm được không ?"
Nhâm Nhược Tích còn chưa nói câu nào, Tôn Vũ và Anh Đào đã chen ngay vào khen ngợi:
"Tuyệt, cách này của Đại Vương, quả thật là nghĩ những việc mà tiền nhân chưa nghĩ đến, làm những việc mà tiền nhân chưa hề làm !"
Nhâm Nhược tích nhìn đôi mắt Khánh Kỵ như đang chờ câu trả lời của nàng, không kềm được nàng cười mỉm, mừng rỡ nói:
"Sở trường của hai vị tướng quân đây là điều binh khiển tướng, tung hoành trên chiến trường, còn có thể thấy được cái tuyệt diệu trong phương pháp của đại vương, Nhược Tích vốn là con nhà rèn, sao lại không biết cái lợi và hại trong đó chứ ?"
Nàng nói đến đây bèn chớp mắt, thở nhẹ nói:
"Chỉ là đổi phương pháp thôi, Nhược Tích đã có thể tưởng tượng được, Nhâm gia từ đây sẽ xảy ra những biến đổi động trời gì rồi, sao thiếp lại chưa từng nghĩ đến phương pháp này nhỉ ? Quả thật là sửa dở thành hay…"
Nói đến đây nàng bèn mở to mắt, ngạc nhiên nhìn Khánh Kỵ:
" Trừ phi… trừ phi đây cũng là phương pháp mà đại vương học trên tiên giới ?".
Khánh Kỵ đối với câu hỏi của Nhâm Nhược Tích chỉ cười mà không trả lời. Nếu không phải bất đắc dĩ, thì hắn cũng chẳng muốn dùng những thứ như quỷ thần để trêu chọc người khác, nhất là đối với người nữ nhi của mình, nhưng hắn lại không thể phủ nhận. Về phía Nhâm Nhược Tích lại cho rằng, thái độ do dự này của hắn như là không muốn tiết lộ thiên cơ, tuy không nói ra, nhưng lời nói của nàng lại không kềm nổi sự kính sợ trong đó, lại hỏi:
"Vậy thì, điều thứ hai mà đại vương muốn nói, lại là việc gì ?"
Khánh Kỵ đột nhiên đưa tay vào trong lòng, như muốn lấy một vật mẫu ra, nhưng bên trong lại trống không, lúc này mới nhớ ra dao Lỗ của hắn đã tặng cho Thi Di Quang. Sau khi hắn về nước Ngô, đã phái người đi đón phụ tử vị ân nhân này, nhưng đến nay vẫn chưa có tin tức, có thể là sau khi tiễn Khánh Kỵ, Thi lão đại đã dẫn theo người nhà mai danh ẩn tích để tránh tai họa, người Khánh Kỵ phái đi chỉ có thể âm thầm tìm kiếm, nên trong nhất thời chưa tìm ra tung tích của họ.
Khánh Kỵ buông thỏng tay nói:
"Đao Trịnh, búa Tống, dao Lỗ, kiếm Ngô Việt, đều được xưng thiên hạ thần binh. Trong bốn loại binh khí cận chiến này, xưa nay đều xưng tôn kiếm Ngô Việt của ta, nhưng theo quả nhân thấy, nếu là cận chiến, đao có thể quét ngang, lại đâm được chém được, thực sự là vua trong binh khí, còn kiếm là quân tử trong binh khí, bá khí không bằng đao, nước Ngô ta đã có thể rèn được thanh kiếm tốt, tại sao lại không rèn đao ?"