- Có một chút, nhưng ta không phải là vị quan lớn nhất, thiếu niên trên kia cũng không phải là quan, ngài là Hoàng đế bệ hạ của chúng ta.
Tiểu cô nương chu đôi môi hồng hồng lên nói:
- Ta đã nghe Giang đại nhân của quốc gia các ngươi nói, quốc gia này có một thiếu niên rất thông minh, thiếu nên đó đã làm cho quốc gia các ngươi trở nên vô cùng hùng mạnh và giàu có. Phải chăng thiếu niên đó chính là ngươi hay sao?
Thạch Kiên cũng đang định đáp lại thì Triệu Trinh bất ngờ hỏi:
- Thạch thị lang, khanh biết thứ tiếng nước ngoài này từ khi nào vậy?
Thạch Kiên bắt đầu đổ mồ hôi toàn thân. Trông thấy tiểu cô nương này ngây thơ khả ái mà nhất thời hắn quên mất rằng đây là Tống triều, mình còn chưa bao giờ giao tiếp với người ngoại quốc.
Ngay lập tức hắn đáp:
- Vâng, trước kia khi phụ thân thần còn sống, có một người du hành đã từng quá giang ở nhà thần một thời gian. Vì vậy mà thần cũng học hỏi được vài câu.
Tuy nói vậy nhưng trong lòng hắn lại càng thêm lo sợ, hắn học liền một lúc mấy ngoại ngữ. Từ khi còn học phổ thông đã học tiếng Anh, đến lúc lên đại học mới bắt đầu học tiếng Pháp và Latin nhưng thời gian học rất lâu cho nên hắn có một chút cơ sở của tiếng Latin. Nếu chỉ trong vài ngày mà hắn học được một môn ngoại ngữ này thì hắn nhất định sẽ là thần tiên giáng trần?
Tuy hắn nói những lời như vậy nhưng người khác lại rất tin tưởng. Ở trong mắt họ, hắn thật sự quá thông minh. Nếu chủ tâm học một môn ngoại ngữ thì chắc chắn sẽ rất dễ dàng đối với hắn.
Tiểu cô nương kia nói:
- Ngươi biết ngôn ngữ của chúng ta, ta cũng biết ngôn ngữ của các ngươi.
Nàng nói những lời này bằng tiếng Hán tiêu chuẩn, so với sứ giả kia thì vẫn chuẩn mực hơn.
Nàng nói:
- Ta còn biết ngươi là Kiên Thạch.
Kiên Thạch? Cả triều thần đều sững sờ kinh ngạc, không biết hắn đổi tên thành Kiên Thạch từ lúc nào?
Thạch Kiên hiểu tại sao như thế. Hắn nói với nàng:
- Ta là Thạch Kiên, còn có tên tự là Bất Di. Người Đại Tống chúng ta và người Châu Âu các vị tên họ sắp xếp khác nhau, ở nước chúng ta họ ở phía trước tên ở phía sau.
Diện mạo tiểu cô nương kia rất đáng yêu, hơn nữa nàng lại nói năng rất chừng mực. Hiện giờ nàng và Thạch Kiên nói chuyện nhưng không có ai ngăn cản nàng. Nàng vui vẻ nói:
- Xin chào Thạch Kiên đại nhân. Tên ta là Lolita
- Lo..lolita
Thạch Kiên nuốt ực một cái thiếu chút nữa bị mê muội.
- Đúng vậy, cái tên này nghe không được hay sao?
- Rất êm tai.
Thạch Kiên tuy nói nhưng thiếu chút nữa là đổ mồ hôi. (Muốn biết tại sao Thạch Kiên thiếu chút nữa là đổ mồ hôi, mời các bạn đọc link sau
http://vi.wikipedia.org/wiki/Lolita )
- Giang đại nhân, bọn họ đều nói ngài rất giỏi, vậy đây có phải là sự thật hay chỉ là sự giả dối?
Nói tới đây, nàng chuyển hướng qua Triệu Trinh, hỏi:
- Tiểu Hoàng đế bệ hạ Tống triều, Thạch đại nhân có phải là người rất thông minh không?
Câu nói “tiểu Hoàng đế bệ hạ” một lần nữa lại làm mọi người muốn cười.
Triệu Trinh nói:
- Không sai, Thạch đại nhân đích thị là một người rất thông minh.
Tiểu Thư Lolita từ chỗ ngồi của mình đi đến trước mặt Thạch Kiên, vẽ một chữ thập ở trước ngực mình và nói:
- Như vậy ta có thể thỉnh cầu đại nhân một việc được không?
Chứng kiến cử chỉ hành động già dặn của nàng làm cho tất cả mọi người đều cảm thấy nực cười, Thạch Kiên nói:
- Bản quan dù không thể đáp ứng ngay nhưng chỉ cần bản quan làm được thì bản quan nhất định sẽ thực hiện.
- Ngươi có thể giúp quốc gia chúng ta đuổi bọn tà đạo không?
Lịch sử Tây Ban Nha gần như là một nước luôn luôn bị ngoại tộc xâm lược. Người ta tin rằng nền văn hóa thành thị đầu tiên thuộc về một thành phố bán thần thoại ở miền nam Tây Ban Nha, thành phố Tartessos (có lẽ tồn tại khoảng 1100 năm trước Công nguyên). Giữa năm 500 và 300 trước Công nguyên, người Phoenici và Hy Lạp đã thực hiện những chuyến vượt biển và thành lập các thuộc địa thương mại của mình trên khắp vùng biển Địa Trung Hải, trong đó có Tây Ban Nha ngày nay. Người Carthage đã thống trị Địa Trung hải trong một thời gian ngắn trước khi bị người La Mã đánh bại trong Chiến tranh Punic.
Trong chiến tranh Punic lần thứ hai, Đế chế La Mã đã sát nhập các thuộc địa thương mại của người Carthage trên biển Địa Trung Hải vào lãnh thổ của mình (từ năm 210 đến 205 trước Công nguyên). Đế chế La Mã đã cai quản toàn bộ bán đảo Iberia trong suốt 500 năm, ràng buộc vùng đất này bởi luật pháp và ngôn ngữ của La Mã. Những con đường lớn cũng được xây dựng nối bán đảo Iberia với đế chế.
Người La Mã đã trùng tu lại các đô thị còn lại như Lisbon (hay còn gọi là Olissipo, nay là thủ đô của Bồ Đào Nha), Tarragona (Tarraco) và thành lập các đô thị mới như Zaragoza (Caesaraugusta), Mérida (Augusta Emerita), và Valencia (Valentia). Nền kinh tế của bán đảo đã phát triển hưng thịnh dưới sự cai trị của La Mã. các sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng lên cùng với việc đưa vào vận hành hệ thống tưới tiêu đồng ruộng, một trong số chúng ngày nay vẫn còn được sử dụng. Các hoàng đế Trajan, Hadrian, Marcus Aurelius và Theodosius I, cùng với triết gia nổi tiếng Seneca đều sinh ra tại Tây Ban Nha. Đạo Cơ đốc đã lan đến Tây Ban Nha vào thế kỉ 1 và trở nên phổ biến vào thế kỉ 2 tại các đô thị. Phần lớn ngôn ngữ, tôn giáo, cơ sở luật pháp của Tây Ban Nha ngày nay đều bắt nguồn từ giai đoạn này.
Các bộ tộc người còn lạc hậu đã xâm chiếm Tây Ban Nha vào thế kỉ 5, khi mà Đế chế La Mã đang trên đà sụp đổ. Người Visigoth, Suebi, Vandal and Alan đã vượt qua dãy núi Pyrenees để tiến vào Tây Ban Nha. Người Visigoth sau đó đã tiếp quản Tây Ban Nha vào năm 415. Sau khi cải theo Thiên chúa giáo La Mã, vương quốc Visigoth đã trở thành một triều đại lớn ở bán đảo Iberia.
Vào thế kỉ 8, bán đảo Iberia đã bị người Berber theo Đạo Hồi từ Bắc Phi nhanh chóng xâm lược (711-718). Sự xâm chiếm này là một phần trong sự mở rộng của triều đại Omeyyad Ả Rập. Chỉ có duy nhất ba vùng đất nhỏ ở miền núi phía bắc còn giữ được độc lập là Asturias, Navarre và Aragón. Trong Thời kỳ Hồi giáo, Tây Ban Nha được biết đến với cái tên Al-Andalus. Thời kì Hồi giáo ở Tây Ban Nha thịnh vượng nhất dưới triều vua Abd-ar-Rahman III.
Năm 722, vương quốc Asturias theo đạo Cơ đốc được thành lập, chỉ 11 năm sau khi người Berber xâm chiếm bán đảo Iberia vào năm 711. Đầu năm 739, quân đội Hồi giáo bị đuổi ra khỏi Galacia, nơi có một trong những địa điểm thiêng liêng nhất của Đạo Cơ đốc thời trung cổ, Santiago de Compostela. Một thời gian ngắn sau, quân đội của người Frank cũng đánh đuổi thành công quân đội Hồi giáo về phía nam dãy Pyrenees, thành lập một tỉnh Cơ đốc giáo rồi sau này phát triển thành một vương quốc ở phía đông bắc.
Sự suy yếu của Đế chế Hồi giáo Al-Andalus trong những cuộc chiến tranh với vương quốc Taifa đã tạo điều kiện cho sự mở rộng của các vương quốc Cơ đốc giáo. Việc chiếm thành công thành phố trung tâm Toledo vào năm 1085 đã hoàn thành việc giải phóng phần lớn miền bắc Tây Ban Nha. Sau sự phục hồi vào thế kỉ 12 của vương triều Hồi giáo, những vùng đất lớn của người Hồi giáo đã rơi vào tay người Cơ đốc giáo vào thế kỉ 13 như Córdoba năm 1236 vào Seville năm 1248. Và người Hồi giáo chỉ còn lại mỗi vùng đất bị bao vây Granada và có vai trò như một tiểu quốc chư hầu ở phía nam. Cũng vào thế kỉ 13, vương quốc Aragón đã mở rộng tới vùng Địa Trung Hải và vươn đến đảo Sicily.
Năm 1469, ngai vàng của hai vương quốc Cơ đốc giáo Aragón và Castilla đã được hợp nhất bởi lễ cưới giữa vua Fernando II của Aragon và nữ hoàng Isabel I của Castilla. Năm 1492, vương quốc hợp nhất đã chiếm đóng Granada, chấm dứt 781 năm cai trị của người Hồi giáo tại bán đảo Iberia. Cũng trong năm 1492, với sự hỗ trợ của vua Fernando và nữ hoàng Isabel, nhà thám hiểm Christopher Columbus đã vượt Đại Tây Dương và tìm ra châu Mỹ, một phát kiến địa lí quan trọng hàng đầu của lịch sử. Trong cùng năm, một lượng lớn người Do Thái đã bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha bởi Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha.
Vua Fernando và nữ hoàng Isabel đã củng cố vững chắc hệ thống quyền lực trung ương, đồng thời cái tên España (Tây Ban Nha) bắt đầu được dùng để chỉ vương quốc hợp nhất. Với những cải cách lớn về chính trị, pháp luật, tôn giáo và quân đội, Tây Ban Nha đã vươn lên trở thành một cường quốc trên thế giới.
Cuộc tranh luận về quyền kế thừa ngôi báu đã nổ ra vào những năm đầu của thế kỉ 18. Cuộc chiến tranh về quyền thừa kế đã nổ ra tại Tây Ban Nha (1701-1714) với cái giá phải trả là Tây Ban Nha đã mất đi vị trí là một cường quốc ở khu vực. Vương triều Bourbon Pháp đã lên thay thế. Vị vua Bourbon đầu tiên là Felipe V đã thống nhất đất nước dưới một chính quyền tập trung, thủ tiêu rất nhiều đặc quyền đặc lợi của quý tộc địa phương. Thế kỉ 18 chứng kiến sự phục hồi dần dần và sự thịnh vượng đã quay trở lại Tây Ban Nha dưới triều đại Bourbon. Những ý tưởng của Thời kỳ Khai sáng đã phát huy tác dụng. Vào cuối thế kỉ 18, thương mại tăng trưởng nhanh chóng. Sự giúp đỡ quân sự đối với các thuộc địa Anh trong cuộc Chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ đã cải thiện vị thế quốc tế của Tây Ban Nha.
Cuối thế kỷ 18, Tây Ban Nha (cùng với Anh, Áo, đế chế Ottoman và Phổ,...) giúp đỡ Hoàng gia Bourbon mất ngôi trong Chiến tranh Cách mạng Pháp chống lại nước Cộng hòa Pháp. Nhưng sự thất bại trên chiến trường đã dẫn đến việc vua Carlos IV phải có những thỏa hiệp với nước Pháp cách mạng. Năm 1804, Đế chế thứ nhất được Hoàng đế Napoléon I của Pháp thành lập. Các cuộc chiến giữa Napoléon và Liên minh chống Pháp của Anh, Áo, Phổ,... xảy ra liên miên trong khi Tây Ban Nha bấy giờ về phe Pháp. Trong trận Trafalgar vào năm 1805, Hải quân Anh do Đô đốc Horatio Nelson thống lĩnh đập tan tác hạm đội hỗn hợp của Hải quân Tây Ban Nha và Pháp, và Đô đốc Tây Ban Nha bị thương chí mạng.[5] Sau đó, việc Tây Ban Nha rút khỏi Hệ thống Phong tỏa Lục địa đã khiến Napoléon hết sức tức giận. Ông ta đã đem quân chiếm đóng và hạ bệ vua Carlos IV của Tây Ban Nha. Người dân Tây Ban Nha phản ứng rất mãnh liệt và quyết định ủng hộ con trai vua Carlos là Fernando. Ngày 2 tháng 5 năm 1808, cuộc khởi nghĩa giành độc lập người dân thủ đô Madrid bùng nổ, chống lại quân đội Pháp chiếm đóng.
Tây Ban Nha bị đặt vào vòng phong tỏa của Đế quốc Anh. Trong khi đó, các ủy ban hành chính tuyên bố ủng hộ Fernando, và họ mong có được nhiều quyền tự trị từ Madrid với một bản hiếp pháp tự do. Năm 1812, Cádiz Cortes đã thành lập bản hiếp pháp đầu tiên của nước Tây Ban Nha, Hiến pháp năm 1812 (còn có tên là La Pepa).
Quân đội Anh, dưới sự lãnh đạo của công tước của Wellington, đã đánh bại quân đội Pháp ở bán đảo Iberia. Cuộc chiến tranh ở bán đảo Iberia có thể coi là cuộc chiến tranh du kích đầu tiên trong lịch sử cận đại Tây Âu. Những con đường tiếp tế của quân Pháp đã bị ngăn chặn và phá hủy bởi những chiến sĩ du kích Tây Ban Nha. Quân đội Pháp chính thức bị đánh bại trong trận Vitoria năm 1813, và đến năm sau, Fernando IV đã trở thành vua của Tây Ban Nha.
Từ năm 1820-1823, một cuộc cách mạng đã diễn ra ở Tây Ban Nha đòi vua Fernando VII phải thực hiện bản Hiến pháp 1812, lãnh đạo bởi Rafael del Riego và được người dân ủng hộ. Trước phong trào cách mạng, nhà vua đã phải thừa nhận bản hiếp pháp và một số cải cách tư sản đã được tiến hành. Đến tháng 11 năm 1823, quân Bourbon của Pháp theo lệnh của Liên minh Thần thánh tiến vào đàn áp, Riego bị xử tử.
Năm 1873, nền cộng hòa đầu tiên ở Tây Ban Nha được thành lập. Nhưng đến năm 1874, nền cộng hòa đã bị Nhà thờ Thiên chúa giáo La Mã đàn áp.
Vào cuối thế kỉ 19, những phong trào dân tộc bùng nổ ở Cuba và Philippines, gây ra những cuộc chiến tranh đòi độc lập. Hoa Kỳ đã can thiệp vào các nước này và vào năm 1898, cuộc chiến tranh Hoa Kỳ-Tây Ban Nha bùng nổ. Kết quả là Tây Ban Nha đã mất nốt những thuộc địa cuối cùng của mình là Philippines, Guam ở châu Á và Cuba, Puerto Rico ở biển Caribbean.
Những năm đầu thế kỉ 20, tình hình Tây Ban Nha tương đối ổn định. Tây Ban Nha đã chiếm một số thuộc địa ở châu Phi như Tây Sahara, Morocco và Guinea Xích Đạo. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Rif nổ ra tại Morocco vào năm 1931 đã làm suy giảm ảnh hưởng của Tây Ban Nha tại các thuộc địa này. Khoảng thời gian cai trị độc tài của tướng Miguel Primo de Rivera (1923-1931) kết thúc với việc nền cộng hòa thứ hai được thành lập. Chính quyền cộng hòa đã trao quyền tự trị cho các vùng như xứ Basque, Catalonia và Galacia, đồng thời công nhận quyền bầu cử của phụ nữ.
Năm 1936, cuộc nội chiến Tây Ban Nha bùng nổ giữa phe của viên tướng độc tài Francisco Franco với phe Cộng hòa. Cho đến ngày 21 tháng 3 năm 1939, Franco chiếm được thủ đô Madrid, chính phủ Cộng hòa bị lật đổ. Franco thiết lập nền thống trị độc tài ở Tây Ban Nha và ông ta trở thành nguyên thủ của đất nước này cho đến khi mất.
Dưới thời Franco, một nền thống trị độc tài được thiết lập ở Tây Ban Nha. Chỉ có duy nhất một đảng của Franco là hợp pháp, còn tất cả các chính đảng khác đều bị thủ tiêu. Nhiều nhân sĩ tiến bộ đã bị bắt giam hoặc bị giết, nhiều người đã phải chạy sang châu Mỹ Latinh.
Năm 1956, nền thống trị của Tây Ban Nha tại Maroc đã kết thúc. Đến năm 1968, đến lượt Guinea thuộc Tây Ban Nha tuyên bố độc lập, trở thành một quốc gia với tên gọi Guinea Xích Đạo.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Tây Ban Nha về mặt chính trị và kinh tế khá tách biệt so với thế giới bên ngoài. Nước này vẫn giữ mình đứng ngoài Liên Hiệp Quốc cho đến tận năm 1955. Trong thập niên 1960, Tây Ban Nha đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy và được gọi Phép màu Tây Ban Nha, giúp chuyển đổi nước này thành một quốc gia công nghiệp hóa hiện đại. Các chính sách tự do hóa chính trị và kinh tế trong những năm cuối cầm quyền của Franco được thực hiện khiến cho ngành du lịch hết sức phát triển, chỉ số phát triển con người được nâng cao.
Nhân giai đoạn lịch sử này mà tác giả nổi tiếng Hemingway còn viết nên một tiểu thuyết “Chuông nguyện hồn ai - For whom the bell tolls).
Về chuyện này sử sách đã ghi chép rất rõ ràng, hắn không phải là không biết, đại đa số con người đều giống nhau, thời Trung cổ có lịch sử sớm hơn cùng với thời Châu Âu cận đại bởi vì châu Âu có nhiều chủng tộc vô cùng phức tạp, hắn cũng không phải là không biết. Tuy nhiên tình huống rất khó khăn, không thể giải quyết nhanh chóng, còn xảy ra trong vòng mấy trăm năm, cho đến lúc người Ả Rập hoàn toàn bị đuổi khỏi châu Âu đại lục thì châu Âu mới bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp, dần dần vượt lên trên mọi quốc gia khác. Hắn hi vọng cục diện sẽ đổi khác, nếu không đến ngày mà châu Âu xâm chiếm thì Trung Quốc sẽ vô cùng bị nguy khốn. Và hiện tại khi hắn xuyên qua tới đây thì họ vẫn luôn bài xích Trung Quốc.
Hắn buông lời đáp:
- Rất xin lỗi tiểu thư Lolita, thứ nhất, hiện tại có rất nhiều việc cần giải quyết vì vậy mà không thể kham được việc nào khác nữa. Thứ hai, đất nước các vị cách Tống triều quá xa, thực lòng ta muốn giúp nhưng lực bất tòng tâm.
Nghe được Thạch Kiên nói những lời này, tiểu thư Lolita mắt liền ngấn lệ, nàng vẽ một chữ thập trước ngực và nói:
- Cầu xin thánh phụ, thánh tử, thánh linh (Chúa, xin Cha, các vị thánh thần) hãy cứu lấy những người dân Tây Ban Nha đáng thương chúng con.
Nàng vừa nói xong đã bị lão già kia kéo về. Trong đám sứ giả tới đây còn có người Moors (2) và không ít người Ả Rập.
2. Người Moors: Moor là từ dùng để mô tả nhóm dân số trong lịch sử bao gồm người Berber, người châu Phi da đen, người Ả Rập có nguồn gốc Bắc Phi, những nhóm người này đã chinh phục và xâm chiếm bán đảo Iberia trong gần 800 năm. Tại thời điểm đó, họ là những người Hồi giáo, trước đó thì người Moor theo tôn giáo khác. Họ gọi lãnh thổ này là Al Andalus, bao gồm phần lớn Tây Ban Nhà và Bồ Đào Nha ngày nay.
Tiểu thư Lolita vẫn bướng bỉnh ngồi ở chỗ của mình nói:
- Tuy rằng Thạch đại nhân không có mắt màu lục, cái mũi cũng không đủ cao và làn da cũng không trắng không thể coi là một thiếu niên khôi ngô tuấn tú nhưng chỉ cần Thạch đại nhân ra tay giúp đỡ đuổi bọn ngoại xâm tà đạo thì ta nguyện cả đời phụng dưỡng đại nhân, nguyện làm thê tử trăm năm suốt kiếp. Ta xin thề trước Chúa Jehovah (3) và đức mẹ Maria.
3. Chúa Jehovah:
http://home.earthlink/~charlieng...ua_jehovah.htm
Nói xong nàng lại vẽ một chữ thập trước ngực.
Mọi người nghe xong lại càng lảo đảo hơn.
Hiện tại dù có là ai đi nữa, ngay cả Đinh Vị cũng cho rằng nếu xét về dung mạo và tài năng thì Thạch Kiên vẫn là một người hiếm có. Bàn về tướng mạo thì hiếm một ai ở Tống triều có thể bì kịp. Bất kể lúc nào Thạch Kiên xuất hiện, ngay cả khi hắn mặc y phục bình thường thì vẫn không thể tránh khỏi sự ngưỡng mộ và ánh nhìn của hàng trăm thiếu nữ. Nghe nói khi Thạch Kiên rời khỏi Lạc Dương lúc đó đã có vô số thiếu nữ đài các đi đưa tiễn hắn, tới mức nước mắt của họ còn làm đất hai bên đường ướt mềm như bùn.Vậy mà tiểu thư này lại nói bộ dạng hắn không tuấn tú hơn nữa lại muốn cả đời phụng dưỡng hắn.
Tuy nhiên nghĩ lại thì quả thật không thể đếm hết được cái số phong lưu đang vây quanh hắn. Đó là còn chưa kể tới Công chúavà Quận chúa của Bát vương còn đang có quan hệ mờ ám với hắn. Nếu không, chỉ cần hắn giữ đạo hiếu xong, có thể tưởng tượng hắn sẽ phải chịu sự quấy rầy của vô số người tới cửa cầu hôn.
Tuy nhiên khi tiểu thư Lolita nói những lời này, ánh hào quang trong đôi mắt thực sự rất thánh thiện, điều này làm cho các giáo sĩ cũng có ý đồ đến truyền giáo phải cảm động. Một vị giáo sĩ mặc một chiếc áo choàng màu đỏ như quý tộc đứng dậy, bàn tay ông đặt lên đầu nàng và nói:
- Chúa sẽ ban phước cho người, để mọi mong muốn của Công chúa sẽ thành hiện thực.
Vị thầy tu này nói bằng ngôn ngữ Latin, chỉ một số người du hành và Thạch Kiên mới có thể hiểu. Chỉ có điều Thạch Kiên nghe xong liền sửng sốt. Công chúa? không lẽ cô gái này là một tiểu Công chúa của Tây Ban Nha và lão già này chính là đại thần của Công quốc này, chỉ có điều hắn không biết y dẫn cô Công chúa Lolita này đến đây làm gì? Lời trẻ thơ thường không kiêng kị, nhưng nếu không may những lời đó của nàng truyền đến tai người Moors thì cũng có thể sẽ đẩy vận mệnh quốc gia của nàng đến chỗ diệt vong.
Triệu Trinh cũng tò mò, hướng về Thạch Kiên hỏi:
- Thánh phụ, thánh tử, thánh linh là gì vậy?
Thạch Kiên cười thầm, nghĩ bụng “ người tưởng ta là bách khoa toàn thư hay sao mà cái gì cũng có thể biết? May mắn là ta đến từ kiếp sau, nếu không chỉ dựa vào việc đọc sách, cho dù là đầu óc Einstein thì cũng không có cách nào để học thật nhiều kiến thức như vậy. Tối thiểu là không được tiếp xúc với thực tế, thì làm sao có thể học được?
Hắn đáp:
- Đúng là chuyện này vi thần cũng không thể giải đáp rõ ràng được, tuy nhiên cũng đã từng nghe người du hành nọ nói qua. Đây là cách nói của tôn giáo phương Tây, cho rằng thế giới tồn tại một loại siêu tự nhiên và lực lượng siêu xã hội, loại sức mạnh này chính là Chúa Trời. Ngài ấy là độc nhất vô nhị, không có gì là không thể làm được, sáng tạo ra những thứ hữu hình và vạn vật vô hình khác. Người đó có ba cách hiển hiện đó là thánh phụ, thánh tử, thánh linh. Thánh phụ ở trên trời nên gọi là Tiên phụ, được cho là vị trí cao nhất, là chúa tể của toàn thể lực lượng, Thánh tử là chúa Giesu cứu thế, phải xuống trần để cứu giúp nhân gian, dùng máu trên giá chữ thập để hi sinh cứu vớt người đời cực khổ. Thánh linh cũng là Chúa Trời, là người đầy đạo lý, dẫn dắt nhân dân theo con đường trí tuệ và tín ngưỡng, khiến người ác cũng phải theo cái thiện. Ba vị này không phải là ba người độc lập mà cùng nhau tạo thành một thể thống nhất gọi là Chúa Trời. Bên cạnh đó còn có thánh Mẫu. Nhưng giáo hội chưa bao giờ bái thánh Mẫu, không coi thánh Mẫu là người cữu rỗi con dân. Bà không nhận được những cái cúi chào và khiêm nhường, chỉ có Chúa Trời mới xứng được sùng bái. Nhưng kiểu kính lễ này là để kích hoạt đức tin của con dân theo con đường của Chúa Trời, cảm tạ ân điển cứu vớt của Chúa và tràn đầy hi vọng được cứu vớt.
- Vậy cái gì gọi là hy sinh cao thượng ở trên giá chữ thập?
Hiển nhiên Triệu Trinh bị hấp dẫn bởi câu chuyện.
- Lo..lolita
Thạch Kiên nuốt ực một cái thiếu chút nữa bị mê muội.
- Đúng vậy, cái tên này nghe không được hay sao?
- Rất êm tai.
Thạch Kiên tuy nói nhưng thiếu chút nữa là đổ mồ hôi. (Muốn biết tại sao Thạch Kiên thiếu chút nữa là đổ mồ hôi, mời các bạn đọc link sau
http://vi.wikipedia.org/wiki/Lolita )
- Giang đại nhân, bọn họ đều nói ngài rất giỏi, vậy đây có phải là sự thật hay chỉ là sự giả dối?
Nói tới đây, nàng chuyển hướng qua Triệu Trinh, hỏi:
- Tiểu Hoàng đế bệ hạ Tống triều, Thạch đại nhân có phải là người rất thông minh không?
Câu nói “tiểu Hoàng đế bệ hạ” một lần nữa lại làm mọi người muốn cười.
Triệu Trinh nói:
- Không sai, Thạch đại nhân đích thị là một người rất thông minh.
Tiểu Thư Lolita từ chỗ ngồi của mình đi đến trước mặt Thạch Kiên, vẽ một chữ thập ở trước ngực mình và nói:
- Như vậy ta có thể thỉnh cầu đại nhân một việc được không?
Chứng kiến cử chỉ hành động già dặn của nàng làm cho tất cả mọi người đều cảm thấy nực cười, Thạch Kiên nói:
- Bản quan dù không thể đáp ứng ngay nhưng chỉ cần bản quan làm được thì bản quan nhất định sẽ thực hiện.
- Ngươi có thể giúp quốc gia chúng ta đuổi bọn tà đạo không?
Lịch sử Tây Ban Nha gần như là một nước luôn luôn bị ngoại tộc xâm lược. Người ta tin rằng nền văn hóa thành thị đầu tiên thuộc về một thành phố bán thần thoại ở miền nam Tây Ban Nha, thành phố Tartessos (có lẽ tồn tại khoảng 1100 năm trước Công nguyên). Giữa năm 500 và 300 trước Công nguyên, người Phoenici và Hy Lạp đã thực hiện những chuyến vượt biển và thành lập các thuộc địa thương mại của mình trên khắp vùng biển Địa Trung Hải, trong đó có Tây Ban Nha ngày nay. Người Carthage đã thống trị Địa Trung hải trong một thời gian ngắn trước khi bị người La Mã đánh bại trong Chiến tranh Punic.
Trong chiến tranh Punic lần thứ hai, Đế chế La Mã đã sát nhập các thuộc địa thương mại của người Carthage trên biển Địa Trung Hải vào lãnh thổ của mình (từ năm 210 đến 205 trước Công nguyên). Đế chế La Mã đã cai quản toàn bộ bán đảo Iberia trong suốt 500 năm, ràng buộc vùng đất này bởi luật pháp và ngôn ngữ của La Mã. Những con đường lớn cũng được xây dựng nối bán đảo Iberia với đế chế.
Người La Mã đã trùng tu lại các đô thị còn lại như Lisbon (hay còn gọi là Olissipo, nay là thủ đô của Bồ Đào Nha), Tarragona (Tarraco) và thành lập các đô thị mới như Zaragoza (Caesaraugusta), Mérida (Augusta Emerita), và Valencia (Valentia). Nền kinh tế của bán đảo đã phát triển hưng thịnh dưới sự cai trị của La Mã. các sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng lên cùng với việc đưa vào vận hành hệ thống tưới tiêu đồng ruộng, một trong số chúng ngày nay vẫn còn được sử dụng. Các hoàng đế Trajan, Hadrian, Marcus Aurelius và Theodosius I, cùng với triết gia nổi tiếng Seneca đều sinh ra tại Tây Ban Nha. Đạo Cơ đốc đã lan đến Tây Ban Nha vào thế kỉ 1 và trở nên phổ biến vào thế kỉ 2 tại các đô thị. Phần lớn ngôn ngữ, tôn giáo, cơ sở luật pháp của Tây Ban Nha ngày nay đều bắt nguồn từ giai đoạn này.
Các bộ tộc người còn lạc hậu đã xâm chiếm Tây Ban Nha vào thế kỉ 5, khi mà Đế chế La Mã đang trên đà sụp đổ. Người Visigoth, Suebi, Vandal and Alan đã vượt qua dãy núi Pyrenees để tiến vào Tây Ban Nha. Người Visigoth sau đó đã tiếp quản Tây Ban Nha vào năm 415. Sau khi cải theo Thiên chúa giáo La Mã, vương quốc Visigoth đã trở thành một triều đại lớn ở bán đảo Iberia.
Vào thế kỉ 8, bán đảo Iberia đã bị người Berber theo Đạo Hồi từ Bắc Phi nhanh chóng xâm lược (711-718). Sự xâm chiếm này là một phần trong sự mở rộng của triều đại Omeyyad Ả Rập. Chỉ có duy nhất ba vùng đất nhỏ ở miền núi phía bắc còn giữ được độc lập là Asturias, Navarre và Aragón. Trong Thời kỳ Hồi giáo, Tây Ban Nha được biết đến với cái tên Al-Andalus. Thời kì Hồi giáo ở Tây Ban Nha thịnh vượng nhất dưới triều vua Abd-ar-Rahman III.
Năm 722, vương quốc Asturias theo đạo Cơ đốc được thành lập, chỉ 11 năm sau khi người Berber xâm chiếm bán đảo Iberia vào năm 711. Đầu năm 739, quân đội Hồi giáo bị đuổi ra khỏi Galacia, nơi có một trong những địa điểm thiêng liêng nhất của Đạo Cơ đốc thời trung cổ, Santiago de Compostela. Một thời gian ngắn sau, quân đội của người Frank cũng đánh đuổi thành công quân đội Hồi giáo về phía nam dãy Pyrenees, thành lập một tỉnh Cơ đốc giáo rồi sau này phát triển thành một vương quốc ở phía đông bắc.
Sự suy yếu của Đế chế Hồi giáo Al-Andalus trong những cuộc chiến tranh với vương quốc Taifa đã tạo điều kiện cho sự mở rộng của các vương quốc Cơ đốc giáo. Việc chiếm thành công thành phố trung tâm Toledo vào năm 1085 đã hoàn thành việc giải phóng phần lớn miền bắc Tây Ban Nha. Sau sự phục hồi vào thế kỉ 12 của vương triều Hồi giáo, những vùng đất lớn của người Hồi giáo đã rơi vào tay người Cơ đốc giáo vào thế kỉ 13 như Córdoba năm 1236 vào Seville năm 1248. Và người Hồi giáo chỉ còn lại mỗi vùng đất bị bao vây Granada và có vai trò như một tiểu quốc chư hầu ở phía nam. Cũng vào thế kỉ 13, vương quốc Aragón đã mở rộng tới vùng Địa Trung Hải và vươn đến đảo Sicily.
Năm 1469, ngai vàng của hai vương quốc Cơ đốc giáo Aragón và Castilla đã được hợp nhất bởi lễ cưới giữa vua Fernando II của Aragon và nữ hoàng Isabel I của Castilla. Năm 1492, vương quốc hợp nhất đã chiếm đóng Granada, chấm dứt 781 năm cai trị của người Hồi giáo tại bán đảo Iberia. Cũng trong năm 1492, với sự hỗ trợ của vua Fernando và nữ hoàng Isabel, nhà thám hiểm Christopher Columbus đã vượt Đại Tây Dương và tìm ra châu Mỹ, một phát kiến địa lí quan trọng hàng đầu của lịch sử. Trong cùng năm, một lượng lớn người Do Thái đã bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha bởi Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha.
Vua Fernando và nữ hoàng Isabel đã củng cố vững chắc hệ thống quyền lực trung ương, đồng thời cái tên España (Tây Ban Nha) bắt đầu được dùng để chỉ vương quốc hợp nhất. Với những cải cách lớn về chính trị, pháp luật, tôn giáo và quân đội, Tây Ban Nha đã vươn lên trở thành một cường quốc trên thế giới.
Cuộc tranh luận về quyền kế thừa ngôi báu đã nổ ra vào những năm đầu của thế kỉ 18. Cuộc chiến tranh về quyền thừa kế đã nổ ra tại Tây Ban Nha (1701-1714) với cái giá phải trả là Tây Ban Nha đã mất đi vị trí là một cường quốc ở khu vực. Vương triều Bourbon Pháp đã lên thay thế. Vị vua Bourbon đầu tiên là Felipe V đã thống nhất đất nước dưới một chính quyền tập trung, thủ tiêu rất nhiều đặc quyền đặc lợi của quý tộc địa phương. Thế kỉ 18 chứng kiến sự phục hồi dần dần và sự thịnh vượng đã quay trở lại Tây Ban Nha dưới triều đại Bourbon. Những ý tưởng của Thời kỳ Khai sáng đã phát huy tác dụng. Vào cuối thế kỉ 18, thương mại tăng trưởng nhanh chóng. Sự giúp đỡ quân sự đối với các thuộc địa Anh trong cuộc Chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ đã cải thiện vị thế quốc tế của Tây Ban Nha.
Cuối thế kỷ 18, Tây Ban Nha (cùng với Anh, Áo, đế chế Ottoman và Phổ,...) giúp đỡ Hoàng gia Bourbon mất ngôi trong Chiến tranh Cách mạng Pháp chống lại nước Cộng hòa Pháp. Nhưng sự thất bại trên chiến trường đã dẫn đến việc vua Carlos IV phải có những thỏa hiệp với nước Pháp cách mạng. Năm 1804, Đế chế thứ nhất được Hoàng đế Napoléon I của Pháp thành lập. Các cuộc chiến giữa Napoléon và Liên minh chống Pháp của Anh, Áo, Phổ,... xảy ra liên miên trong khi Tây Ban Nha bấy giờ về phe Pháp. Trong trận Trafalgar vào năm 1805, Hải quân Anh do Đô đốc Horatio Nelson thống lĩnh đập tan tác hạm đội hỗn hợp của Hải quân Tây Ban Nha và Pháp, và Đô đốc Tây Ban Nha bị thương chí mạng.[5] Sau đó, việc Tây Ban Nha rút khỏi Hệ thống Phong tỏa Lục địa đã khiến Napoléon hết sức tức giận. Ông ta đã đem quân chiếm đóng và hạ bệ vua Carlos IV của Tây Ban Nha. Người dân Tây Ban Nha phản ứng rất mãnh liệt và quyết định ủng hộ con trai vua Carlos là Fernando. Ngày 2 tháng 5 năm 1808, cuộc khởi nghĩa giành độc lập người dân thủ đô Madrid bùng nổ, chống lại quân đội Pháp chiếm đóng.