Quang cảnh bên ngoài của Tống gia sơn thành có thể khiến người nhìn thấy không khỏi phát sinh hai cảm giác hoàn toàn không giống nhau. Nếu cảnh tượng ngoại thành làm ai ai cũng nghĩ tới việc công thủ sát phạt, thì quang cảnh trong thành lại khiến người người liên tưởng đến sự yên ổn bình an.
Trong thành có khoảng chừng trăm ngôi nhà, phân bố đều đặn tạo thành hơn mười dãy rất có ngăn nắp trật tự. Đá xanh lót thành đại đạo nối nhau. Vẻ đặc sắc nhất của vùng này là dựa vào thế núi, cứ tầng tầng mà cao lên, leo lên mỗi nấc lại cao một tầng, phân biệt do những bậc đá và dốc núi nối tiếp, tiện lợi cho dân cư và ngựa xe lên xuống.
Bông hoa cây cỏ được trồng khắp nơi bên đường, nước được dẫn từ những con rạch nhỏ trên núi cao chảy thành dòng suối, lững lờ lượn quanh khu lâm viên có người ở, hình thành những dòng nước chảy, đôi chỗ có cầu bắc qua. Đó đây ao nước, mái đình, đài cao, cảnh đẹp tiếp nối nhau tưởng chừng không dứt. Không gian rộng rãi dễ chịu, có nét đặc sắc của cảnh trí lâm viên Giang Nam, mà nơi đáng kể nhất dường như là bên trong đại hoa viên sát sườn núi cao.
Khu kiến trúc chủ yếu tụ tập phân bố tại tầng thứ chín cao nhất, trên mảnh đất bằng phẳng to lớn chu vi ước chừng đến hai dặm. Lầu các chênh vênh cao ngất, kiến trúc cổ xưa tao nhã, đều dùng cây và đá tạo thành. Từ những mái hiên nối tiếp cho đến hoa văn song cửa, trang trí chi tiết tỉ mỉ không một chút tùy tiện. Toàn bố cục tạo ra một khí phái hùng tráng hòa vào nền văn hóa điển hình của phương nam, càng khiến người người cảm thấy địa vị của Tống phiệt tại nam phương rất quan trọng và có tính quyết định đến tình thế nơi này.
Khấu Trọng theo Tống Lỗ và Tống Trí hai người, đi len lỏi qua đình đài, lâu các, hoa mộc, lâm viên, đến chỗ tận cùng của sơn thành là nơi Ma Đao Đường tọa lạc, lối vào ở ngay trước hoa viên.
Tống Trí ngừng bước lên tiếng:
- Hai người chúng ta có nên hay là không cùng Thiếu soái tiến vào gặp đại huynh đây?
Tống Lỗ thở dài một hơi:
- Nghe ngươi nói như vậy, đại huynh chắc là chỉ muốn gặp một mình Tiểu Trọng thôi!
Tống Trí gượng cười gật đầu.
Khấu Trọng khẽ giật mình:
- Lỗ thúc và Trí thúc phải chăng đang nghĩ là Phiệt chủ bắt tiểu điệt đến để thử đao?
Tống Trí trong lòng ưu tư lo lắng:
- Thử đao pháp của ngươi là chuyện tất nhiên rồi! Vấn đề là gia huynh có thể hạ thủ giết ngươi. Chiếu theo thói quen của người, danh tự kẻ nào được khắc trên ma đao thạch, sau cùng đều bị mất mạng dưới đao của gia huynh.
Khấu Trọng chừng như không hiểu:
- Lão nhân gia người vì cớ gì bỗng nhiên muốn giết tiểu điệt, giết tiểu điệt đối với lão nhân gia có lợi ích gì đâu?
Tống Trí bèn nói:
- Đại huynh lúc nào cũng hành sự nghiêm cẩn, cũng rất khó mà lường trước được. Có một lần gia huynh bí mật rời khỏi sơn thành, sau khi quay lại liền khắc tên ngươi trên ma đao thạch. Ta đã nhiều lần tìm hiểu, gia huynh đều không tiết lộ dù chỉ nửa câu một chữ. Do đó việc này chỉ có thể đem vận khí của ngươi ra mà đánh cuộc, nếu Thiếu Soái lập tức rời khỏi thành, chúng ta tuyệt không hề trách cứ ngươi!
Khấu Trọng sảng khoái cười vang:
- Khấu Trọng ta đâu phải là người lúc lâm trận lại thoái lui, tiểu điệt rất chắc chắn sẽ vẫn còn sống sót quay lại tìm hai vị uống rượu chơi!
Nói xong lập tức tiến bước vào cửa viện.
*
Từ Tử Lăng điềm đạm mỉm cười:
- Mỗ mỗ xin đừng hiểu lầm, tại hạ chỉ là xem coi có thể tìm được người nào để mượn đao xử dụng hay không!
Mọi người vô cùng kinh ngạc.
Một nghệ nhân muốn làm công việc cho được khéo léo, trước tiên phải có khí cụ sắc bén. Ngay cả những con dao cùng được trui luyện từ một người thợ rèn, cũng có sự khác biệt trong sự nặng nhẹ và độ sắc bén. Cho nên người luyện tập võ công rất coi trọng về binh khí tùy thân, bởi vì nếu không trải qua một khoảng thời gian dài để am hiểu đặc tính của binh khí đó, có thể sẽ bị lúng túng trong lúc phát huy năng lực bản thân dẫn đến tình trạng không thể phát dương chiêu số và công phu đến mức độ cao nhất.
Còn như Từ Tử Lăng, vào lúc này việc quan trọng là trong vòng ba chiêu phải đánh bại “Mỹ Cơ” Ti Na, có thể phát huy được đặc tính của binh khí hay không chính là ảnh hưởng then chốt, mà gã hiện giờ khẩn cấp như vậy lại đi mượn một binh khí không vừa tay, khả năng lớn nhất là vẫn chưa chắc chắn hiểu rõ đặc tính của binh khí trước khi qua khỏi ba chiêu.
Lâm Lãng cởi đao đang mang xuống, trao cho Từ Tử Lăng:
- Cung gia xem xem cái này có dùng được chăng?
Hoắc Kỷ Đồng lạnh lùng gầm một tiếng, hiển thị sự bất mãn Lâm Lãng về việc này.
Từ Tử Lăng nắm lấy trường đao, chầm chậm rút đao ra, tả bao hữu đao, trong ánh mắt tỏa ra tia nhìn lăng lệ gay gắt, từng lớp ánh chớp bắn ra bao trùm Hoắc Kỷ Đồng đang đứng bên cạnh Hạ Diệu Oánh, rồi trầm giọng nói:
- Vô luận sự tình phát triển như thế nào, việc của ta và các ngươi cùng Ô Giang bang tuyệt không chút nào quan hệ. Nếu mà Cung Thần Xuân ta thua cuộc bị bắt, đương nhiên là không có tư cách gì để nói. Cung Thần Xuân ta tại đây lập lời thề, bất luận việc lớn chuyện nhỏ, phải nhận mệnh lệnh của ngươi. Bằng như Cung mỗ ta gặp may thủ thắng, thì Hoắc Kỷ Đồng ngươi về sau không được làm phiền đến Ô Giang bang.
Lúc gã rút đao ra khỏi bao, lập tức một luồng nhiệt khí như thiêu đốt từ trung tâm trường đao phát tán ra xung quanh, dường như ngầm bắn về hướng kẻ địch mà tập kích, phối hợp với hào tình bức nhân của gã, nhìn từ bên ngoài khẳng định rằng thật có một lực lượng đe dọa lên đối phương không thể diễn tả được.
“Mỹ Cơ” Ty Na là người trong cuộc, cũng chưa từng nghĩ qua lại có người có thể lợi dụng khí thế bạt đao, phát xuất kình khí kỳ dị lớn mạnh đến như vậy. Đang lúc không thể làm chủ chính mình bèn lùi lại một bước, xuất ra một kiếm thức muốn chống lại đao khí quá mãnh liệt như vô hình mà hữu hình của đối phương.
Hạ Diệu Oanh nhận thấy tình thế cũng biến sắc.
Hoắc Kỷ Đồng đã sớm trừng mắt nhìn gã sau đó trong lòng chợt cảm thấy buốt lạnh, vì đao khí cuồn cuộn như triều dâng tràn đến, sau cùng cũng không chịu nổi phải lùi ra sau hai bước, trong lúc này những lời phản bác đều chẳng dám nói ra.
Những người khác đều nghĩ rằng lời nói của Từ Tử Lăng là hợp tình hợp lý, tất cả bởi vì “Mỹ cơ” Ty Na là truyền nhân của Tứ Xuyên hợp nhất phái, lại thuộc về một trong bốn lãnh tụ chính của Ba Minh, bằng như ả bị đánh bại trong ba chiêu, có lẽ tại Tứ Xuyên này chỉ có “Võ lâm phán quan” Giải Huy Nhất là người có bản lĩnh bảo hộ tiểu của Hoắc Kỷ Đồng, những người khác đều không có tư cách.
Mà Hoắc Kỷ Đồng chẳng hề chấp vào giang hồ quy củ, cứ ỷ mạnh tìm người của Ô Giang bang tiết hận, với tác phong công chánh của Giải Huy Nhất thì chẳng bao giờ muốn nhúng tay giải quyết những việc như vậy.
Từ Tử Lăng biết là đã trấn nhiếp được Hoắc Kỷ Đồng, ánh mắt chuyển sang về phía “Mỹ Cơ” Ti Na, mũi đao chỉ trực tiếp vào ả.
Chuyện dị kỳ đã phát sinh.
Đao khí nóng như thiêu đốt đang cuồn cuộn cuốn tới, thình lình tiêu tán không còn tung tích, rồi dần thay vào đó là khí lạnh âm hàn dày đặc.
Hạ Diệu Oanh sau cùng giật mình hoảng hốt, kinh thét lên:
- Các ngươi lùi lại!
Phất trần trong tay lẹ vung ra.
Lúc này thì ai ai cũng đều biết “Cung Thần Xuân" võ công cao cường, siêu việt đến độ ngoài sức tưởng tượng của Hạ Diệu Oanh, khiến mụ hoàn toàn không còn tin rằng Ti Na có năng lực chống đỡ được ba chiêu.
Với tính cách quật cường của Ti Na, một chiêu cũng chưa đánh qua thì không thể nhận thua, bèn nghiến răng kêu lên:
- Sư phụ yên tâm!
Trường kiếm tạo thành ảo ảnh bóng kiếm trùng trùng, phản khách vi chủ, mãnh liệt đánh ra, bao trùm trời đất hướng Từ Tử Lăng vung tới, cũng phát ra uy thế thập phần.
- Dĩ nhân dịch kiếm, dĩ kiếm dịch địch!
Từ Tử Lăng phối hợp động tác và lời nói, đều y theo đại pháp Dịch kiếm thuật, sau cùng ép buộc được Ti Na chủ động xuất thủ, tiết kiệm không ít t
Nếu như ả luôn luôn giữ ở thế thủ, thì khả năng đánh bại ả trong vòng ba chiêu thật là nan giải đối với gã.
Sự thật là gã đã đánh lừa một cách ngoạn mục.
Đang lúc rút đao, gã mượn thế để phát ra “Trường sinh quyết” kình khí nóng như thiêu đốt, rồi đột nhiên chuyển thành “Trường sinh quyết” chân khí giống như của Khấu Trọng, đổi nhiệt thành hàn. Do đó cho dù một chiêu cũng chưa đánh, nhưng thực tế là đã sớm xuất thủ. Nếu Ti Na cứ giữ thủ thế đối lập cho đến khi bị đánh bại, thì cầm chắc gã phải hội tụ khí công để toàn lực xuất thủ mới hy vọng chỉ một đao là có thể cầm chắc thắng lợi giống như lấy đồ trong túi.
Ti Na sớm đã bị đao khí của gã bức ép lùi lại một bước, chân vừa mới đứng yên, làm sao biết đối phương lại có thể biến nhiệt ra hàn, đang lúc trong lòng đại loạn, nếu không tái phản công, chỉ còn cách lùi lại, thật là mang khổ chỉ tự mình biết. Lúc đứng yên lại trên mặt đất, ả đã hoàn toàn bại trận rồi, trong lòng lại càng hiểu rõ tuyệt không phải là đối thủ của Từ Tử Lăng, chỉ là hy vọng có thể dùng kiếm pháp chống cự cho qua ba chiêu.
Cao thủ tương tranh, một khi chí khí bị đoạt mất, thì lòng tin bị tổn thương, công lực tự nhiên tiêu tan đổ gãy, mà Ti Na chính là đang dần tiến vào trong bẫy rập tinh vi mà Từ Tử Lăng đã cố ý bày ra.
Vô luận tài trí cũng như võ công, khoảng cách giữa hai người thật sự quá xa.
Hạ Diệu Oanh phất trần giơ lên, dính chặt vào sau lưng Ti Na, có ý đồ muốn tham gia trận chiến, do vậy ả lại tiến lên một bước.
Từ Tử Lăng lùi lại nửa bước, đao trong tay phải vẽ ra một đường vòng cung mỹ lệ giữa không trung, thế đao đánh thì mạnh nhưng trông rất nhẹ nhàng chém vào khoảng không
Kiếm khí của Ti Na dường như bị gã đột kích hút mất không còn một chút nào, chỉ tồn tại tư thế một hư chiêu có hình mà không thật, xuất thủ hướng về đao của gã giống như là xông lên đi tìm cái chết, ả sợ đến mất cả hồn vía, vốn định cố đánh ra cho đủ ba chiêu mà không được, bèn vội vã thâu kiếm thối lui.
Lúc này Hạ Diệu Oanh cùng Ti Na kẻ tiến người lui, thân khẽ chạm nhau, phất trần trong tay Hạ Diệu Oanh chứa đầy kình lực rít lên, hướng về Từ Tử Lăng phất đi.
Từ Tử Lăng lòng thầm kêu may mắn, vì Ti Na kinh sợ mà thối lui và lúc gã dùng đao thi triển đã mô phỏng được đến ba bốn phần công lực gần giống như “Thiên ma đại pháp”, đánh thắng mà không lưu huyết với dị tộc Miêu nữ mỹ lệ đầy vẻ phong tình này. Lúc này gã nhìn thấy phất trần cuồn cuộn quét đến, liền lập tức sử chiêu “Binh vô thường thế” trong “Huyết chiến thập thức” của Lý Tịnh, chọc đúng vào điểm mạnh nhất của thế “Đôn khứ đích nhất” mà Hạ Diệu Oanh phất ra.
“Phụt”! Lông của phất trần khẽ chạm vào một đao dường như tùy tiện của gã đang chém thẳng tới, tất cả biến hóa tinh diệu trong chiêu của Hạ Diệu Oanh sau đó cùng lúc bị chặn lại, một luồng đao khí xuyên qua phất trần tràn đến mãnh liệt khiến mụ tựa hồ không thể kháng cự. “Bùng” một tiếng vang lên, trong lòng mụ bấn loạn đến cực điểm, lại không còn cách nào để ngạnh chống, liền bị đánh lui lại phía sau.
Từ Tử Lăng biến đổi đao thế, từ “Binh vô thường thế” chuyển sang thủ thức thứ mười “Quân lâm thiên hạ”, thức này công thủ gồm đủ, dễ bề chế ngự đối thủ.
Với năng lực của Hạ Diệu Oanh, cũng cảm thấy lúc này đã rơi vào thế hạ phong, nếu còn tiếp tục xuất thủ, chắc chắn tự chuốc thêm một kết cuộc nhục nhã khác, bây giờ thì lại càng lùi về thêm về phía sau,i ý niệm phản công đều tiêu tán.
Song phương hồi phục hình thế đứng đối nhau như lúc đầu.
Từ Tử Lăng đương nhiên là không muốn hiếp đáp người quá đáng, bèn chắp tay:
- Cuộc chiến này xem như hòa, Cung mỗ căn bản là không chắc trong ba chiêu thắng được Ty Na đương gia, chỉ là lén xử dụng một ít công phu nho nhỏ sau nhiều năm ẩn dật mà ngộ ra, phải chăng vẫn còn muốn tiếp chiến, xin mỗ mỗ có thể nói một lời quyết định.
Những lời này có thể nói là đã cứu vớt thể diện cho đối phương không ít.
Hạ Diệu Oanh cùng Ti Na nhìn nhau ra dấu, rồi chân dậm mạnh một cái:
- Bại cũng chỉ là bại, không cần ngươi lại vì chúng ta mà nói tốt, chúng ta đi thôi!
*
Đằng sau cửa là lối vào một hành lang uốn lượn đi ngang qua ao nước và vườn ươm cây, Khấu Trọng cứ dọc theo hành lang tiến bước, rẽ sang trái rồi lượn sang phải, mắt nhìn quanh bốn phía, trong vườn khắp nơi là bóng cây xanh, bước dời đi cảnh nhìn đã khác, phong cảnh sáng tạo đặc biệt lạ kỳ.
Tại cuối khúc hành lang là một tòa thạch đình lục giác, cùng với ao nước làm thành trung tâm điểm. Từ một bên, chiếc cầu đá lượn quanh đình viện một vòng thì quay lại chỗ hành lang.
Chiếc cầu đá này dẫn đến một cổng ra vào khác, ẩn hiện trong đó là một không gian khác hẳn, cổ thụ cao ngút trời, mọc dày đặc, bừng bừng sức sống.
Khấu Trọng đi ngang qua thạch đình, sang cầu bước lên hành lang, băng qua cánh cổng nặng nề thứ hai của viện, trước mắt đột nhiên mở rộng ra, cuối đường chỗ này là một tòa nhà to lớn bằng gỗ rộng năm gian, chọc ngút tr một cây hòe cao tới mười trượng ở giữa đình viện trông hết sức ngoạn mục, giống như một cái lưới dù che phủ tòa nhà và đình viện. Vào lúc ánh mặt trời chiếu xuống bóng cây xanh mát khắp nơi, cùng khu kiến trúc chính hòa thành một thể, hỗ tương làm nền cho những dáng hình cao thấp khác nhau, cấu thành một bức họa nên thơ đầy nét mỹ miều.
Khấu Trọng cảm thấy vô cùng sảng khoái, thong thả bước quanh cây hòe một vòng, sau khi thưởng thức đã đủ thì chầm chậm bước lên những cấp bậc bằng đá trắng của tòa nhà có tấm biển khắc ba chữ “Ma đao đường”.
Bên trong Ma đao đường là một khoảng không rất rộng rãi, một người lưng hướng về cửa đang đứng tại giữa sảnh đường, trên người không thấy có binh khí gì, hình thể tựa như ngọn thương, thân khoác trường bào mầu thanh lam để rủ xuống đất, đứng một mình hùng vĩ như núi, mái tóc đen nhánh, trên đỉnh đầu dùng dải lụa hồng quấn quanh búi tóc, hai tay chắp sau lưng, chưa thấy được hình nét ngũ quan mà đã có cảm giác ngạo nghễ khôn cùng, khí thế như ngắm nhìn thiên hạ bằng nửa con mắt.
Hai bên tường, treo khoảng hơn mười bảo đao kiểu loại khác nhau, lại có thêm một tảng đá hình thể vuông vắn được đặt dựa bên cạnh tường hướng về cửa, mầu đen tuyền láng bóng, tảng đá to cao gần bằng thân người. Bầu không khí tại Ma đao đường vốn đã đặc biệt lạ kỳ, thêm vào tảng đá này nữa khiến ý vị của nó thật khó mà hình dung cho được.
Cho dù Khấu Trọng là kẻ to gan lớn mật không chịu an phận thủ thường, nhưng đối mặt với nhân vật tối cao được tôn xưng là Thiên hạ đệ nhất đao thủ, cũng có chút sợ hãi và bối rối, nghiêm chỉnh hướng về phía lưng của người đó thi lễ:
- Hậu bối Khấu Trọng, bái kiến Phiệt chủ!
Môt giọng nói nhu hòa dễ nghe vang vọng lại:
- Ngươi đến muộn quá!
Khấu Trọng lộ vẻ ngạc nhiên:
- Hậu bối đến muộn sao?
Tống Khuyết xoay người đến nhanh như cơn gió lốc, lạnh lùng cất tiếng:
-Ngươi đến muộn ít nhất một năm.
Khấu Trọng cuối cùng cũng đối diện với người danh chấn thiên hạ “Thiên đao” Tống Khuyết, kẻ từ khi xuất đạo đến giờ chưa từng gặp qua đối thủ, phụ thân của người mà gã thương yêu.
*
Lôi Cửu Chỉ đuổi theo sau lưng Từ Tử Lăng cùng tiến vào thương phòng khiến gã có vẻ không vui:
- Huynh đài đi theo ta làm gì?
Lôi Cửu Chỉ đóng cửa phòng lại, che khuất tầm mắt của những người khác, bước gần đến sau lưng Từ Tử Lăng khe khẽ nói:
- Đương nhiên là có việc quan trọng cần thương lượng.
Từ Tử Lăng lạnh lùng hừ một tiếng:
- Ta và huynh đài trước giờ không chút gì quan hệ, về sau cũng chẳng thể có chuyện gì. Làm phiền ta bấy nhiêu đủ rồi, cút ra ngoài, bằng không đừng trách Cung mỗ ta không khách khí!
Lôi Cửu Chỉ vội cười cười:
- Cung huynh không cần phải đánh lừa ta, con người huynh ngoài lạnh trong nóng, lại càng không phải là hạng người ỷ mạnh hiếp yếu, chỉ cần huynh chịu nghe ta nói vài câu, đảm bảo là sẽ có cái nhìn khác về tiểu đệ đó!
Từ Tử Lăng xoay người nhìn hắn, gật đầu hỏi:
- Các hạ trả lời ta trước, mới vừa rồi tại sao lại hiếu thắng muốn cùng ta chống địch?
- Bởi vì huynh đeo mặt nạ do chính ân sư ta chế tạo ra.
Từ Tử Lăng nhíu mày:
- Lôi huynh quả là nhãn lực cao minh, chẳng hay huynh có thể cho ta biết cao tánh đại danh ân sư của huynh chăng?
Lôi Cửu Chỉ để lộ trong nét cười có chút đắng cay, buồn buồn nói:
- Dù ta tôn Lỗ Diệu Tử đại sư làm thầy, người vẫn khước từ không chịu thừa nhận ta là đồ đệ. Nhưng Lôi Cửu Chỉ ta có được sự thành tựu như ngày hôm nay, tất cả đều do người ban cho.
Từ Tử Lăng sắc mặt chẳng chút đổi thay, giọng dìu dịu lại:
- Huynh khám phá ra ta mang mặt nạ từ lúc nào?
Lôi Cửu Chỉ trả lời:
- Ta chỉ là suy đoán ra thôi, đôi tai của ta từng trải qua sự rèn luyện đặc biệt, không những chỉ có thể nghe được những sai biệt vi diệu trong thanh âm của hột xí ngầu chuyển động trong bát, mà còn có thể lén nghe người khác nói chuyện ở một khoảng cách xa. Đương lúc ta phát giác huynh chẳng hề biết Hạ Diệu Oanh thì tiến lại chỗ huynh đứng, nhân đó mà đoán ra huynh chính thật chẳng phải là Cung Thần Xuân, và sự thật là huynh so với Cung Thần Xuân còn cao minh hơn cả vạn lần. Do đó ta mới cố ý đi theo sau lưng huynh, cẩn thận xem xét sự khác biệt trong da cổ và da mặt, rồi mới dám chắc là huynh đang đeo mặt nạ. Mà những mặt nạ tinh vi như thế này thì chỉ có thể được tạo nên bởi diệu thủ của Lỗ sư, tài ba đến mức vẹn toàn không một chút khuyết
Từ Tử Lăng ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh cửa sổ, điềm đạm hỏi tiếp:
- Lỗ tiên sinh đã không hề thu nhận huynh làm đồ đệ, vậy chứ huynh và Lỗ tiên sinh rốt cuộc thực sự có quan hệ như thế nào?
Lôi Cửu Chỉ ngồi xuống bên một chiếc ghế khác, thần sắc hiển lộ vẻ trầm tư, rồi thong thả buông tiếng:
- Sự việc này đã hơn ba mươi năm về trước, ta lúc đó chỉ mới mười lăm tuổi, làm việc chạy vặt trong một đổ trường tại Quan Trung. Có một hôm Lỗ Diệu Tử đến đánh bạc, dùng đổ thuật không gì có thể sánh bằng, thắng cuộc rất nhiều lần được một số tiền lớn. Lúc người ly khai ta bèn đuổi theo sau, khẩn cầu người dạy cho ta thủ pháp đánh thắng được nhiều tiền. Than ôi! Vào lúc đó ta vẫn nghĩ người chỉ là một kẻ đánh bạc có kỹ thuật rất cao minh so với người khác.
Từ Tử Lăng có thể tưởng tượng ra phản ứng của Lỗ Diệu Tử, bèn mỉm cười:
- Người nói gì không?
Lôi Cửu Chỉ nhẹ tay vuốt má rồi nói tiếp:
- Người thưởng cho ta một cái tát vào mặt, rồi sau đó cười lớn: “Công gấp lợi gần, chỉ nghĩ đến dùng kỹ xảo gạt người để tức tốc giầu có, đổ lâm cao thủ lúc nào cũng có hơn hằng ngàn, ta đã đánh ngươi, chỉ là để truyền cho ngươi quyết pháp “hai chữ” đó!”
Từ Tử Lăng lúc này ít nhất cũng đã tin tưởng Lôi Cửu Chỉ đến bảy tám phần. Chỉ vì đây chính là phong cách nói chuyện ngập tràn ngạo khí của Lỗ Diệu Tử, quá đỗi hứng thú vội hỏi thêm:
- Là hai chữ gì vậy?
Lôi Cửu Chỉ nhẹ thở dài
- Chỉ là hai chữ “Giới Tham”.
Từ Tử Lăng không thể ngăn được bật cười sằng sặc:
- Lỗ tiên sinh thật tuyệt! Huynh còn có thể nói gì được nữa không?
Lôi Cửu Chỉ cất giọng:
- Ta đang lúc á khẩu câm lời, Lỗ sư lại nói tiếp: “Bằng vào đổ thuật của ta, có thể đánh thắng một đổ trường như thế này rất dễ dàng. Nhưng ta chỉ thắng cuộc năm mươi lượng bèn rời khỏi đổ trường, đây chính là hai chữ “giới tham”. Chỉ người có khả năng hoàn toàn khống chế lòng tham sân si của chính mình, chừng đó mới có tư cách đánh thắng tiền của kẻ khác, vì vậy ta tuyệt không nói nhảm nhí.”
Từ Tử Lăng trong trí phác họa ra thần thái điệu bộ Lỗ Diệu Tử đương khi nói chuyện, nhớ lại bậc tài hoa này đã ngàn trùng xa cách, trong lòng lại trào dâng một nỗi buồn không tên.
Cái chết của Lỗ Diệu Tử vào lúc đó không để lại cho gã nhiều nét bi thương sâu đậm, nhưng về sau mỗi khi nhớ lại giọng nói tiếng cười của người, lòng kính phục và nỗi nhớ thương cứ dần theo ngày tháng tăng lên.
Còn về việc Tố Tố, gã thật sự chẳng dám nghĩ đến, bởi vì việc này quá sức nặng nề và đau khổ.
Giọng nói của Lôi Cửu Chỉ tiếp tục truyền vào trong tai gã:
- Lúc đó ta nghĩ rằng Lỗ sư chắc sẽ bỏ ta mà đi, đột nhiên người lại đến bên cạnh vuốt vuốt đầu ta, rồi một mình lẩm bẩm: “Này tiểu tử! Ngươi có cốt đầu quả là không tệ, mắt trông có vẻ thông minh, dù sao đi nữa ta cũng đã đến lúc cần có một trợ thủ, thôi ngươi đi theo ta một thời gian vậy!” Câu chuyện bắt đầu là như thế đó! Đây là khoảng thời gian vui sướng nhất đời ta. i không hề chỉ dạy ta bất cứ việc gì, nhưng cũng chẳng ngăn ta đứng bên trộm nhìn để học. Tiếc thay! Chỉ là một khoảng thời gian ngắn nửa năm thôi! Lão nhân gia người hiện giờ ra sao?
Từ Tử Lăng cất giọng trầm buồn:
- Lỗ tiên sinh mất đã lâu rồi!
Nghe tin, Lôi Cửu Chỉ toàn thân bỗng run lên, đôi dòng nhiệt lệ cứ thế mà rơi xuống!