“Gia trưởng ra ngoài.” Vương bác sĩ thản nhiên lên tiếng, không chút thương lượng.
Trương Lập và thê tử dù không cam lòng nhưng vẫn bị buộc phải rời khỏi phòng trị liệu.
Rầm! Ngụy đồng học lập tức đóng sập cửa lại, ánh mắt lộ rõ vẻ căm tức, hậm hực như muốn thốt ra hai chữ: Tiễn ôn thần!
Thực ra, nhiều phụ mẫu đưa con đi khám bệnh không những không giúp ích được gì mà còn làm mọi chuyện rối tung lên. Tưởng rằng mình đang thương xót con, nhưng thực chất lại chỉ khiến tình hình tệ hơn.
Trẻ con còn quá nhỏ, không thể phối hợp với bác sĩ. Trước khi phẫu thuật, nhân viên y tế cần giúp đứa trẻ bình tĩnh lại. Có hai cách: một là cho uống dung dịch Hydrate Chloral, hai là tiêm thuốc an thần. Uống thuốc thì chậm mà gia trưởng bên ngoài lại đang chực chờ xông vào can thiệp, vậy nên phương pháp tiêm tĩnh mạch sẽ hiệu quả hơn.
Vài nhân viên y tế nhanh chóng dỗ dành đứa trẻ, chuẩn bị tiêm mũi thuốc an thần.
Đừng tưởng rằng sau khi thuốc có tác dụng, mọi việc sẽ trở nên suôn sẻ. Tiêm an thần không phải gây mê, đứa trẻ vẫn sẽ có phản ứng. Quan trọng hơn, xỏ lỗ xương thực sự rất đau. Đau đến mức nào ư? Chỉ cần nghe thôi cũng khiến người ta phải rùng mình.
Có người cho rằng xỏ lỗ xương giống như chọc tủy sống, nhưng thực tế không phải vậy.
Lấy tủy sống (chọc dò tủy sống) là đưa kim vào khoang dưới nhện của cột sống để lấy dịch não tủy. Thông thường, xét nghiệm huyết học cũng bao gồm thủ thuật này. Khi kiểm tra bệnh bạch cầu, chọc tủy sống được thực hiện với mục đích khác so với khoa thần kinh hay khoa gây mê.
Bệnh bạch cầu chủ yếu được điều trị bằng hóa trị, nhưng thuốc hóa trị rất khó xuyên qua hàng rào máu não. Một khi hệ thần kinh trung ương bị tế bào ung thư xâm nhập, hiệu quả điều trị sẽ giảm đi đáng kể.
Hiện tại, bệnh nhi cần được xác định có mắc bệnh bạch cầu cấp tính dạng Lympho hay không. Nếu nghi ngờ, cần xét nghiệm tủy xương để xác định chính xác. Trước khi làm các kiểm tra khác, bước đầu tiên bắt buộc chính là xỏ lỗ xương.
Trước đó, bác sĩ chỉ mới đưa ra nghi vấn về bệnh bạch cầu cấp tính dạng Lympho. Tiêu chuẩn chẩn đoán căn bệnh này chính là xét nghiệm tủy đồ, và để làm được điều đó, xỏ lỗ xương là điều không thể tránh khỏi.
Xỏ lỗ xương là một thủ thuật nhằm lấy mẫu tủy xương để làm tiêu bản xét nghiệm. Để làm được điều này, kim tiêm phải đâm xuyên qua lớp xương cứng, đi vào tận bên trong tủy xương.
### Xỏ lỗ xương đau đớn như thế nào?
Cơn đau của thủ thuật này chủ yếu đến từ ba giai đoạn:
1. Đau do kim tiêm xuyên qua da: Đây là cảm giác đau đầu tiên, giống như bất kỳ mũi tiêm nào khác.
2. Đau khi kim đâm vào màng xương: Hệ thống thần kinh chủ yếu phân bố ở màng xương, vì vậy khi kim tiêm chạm đến lớp màng này, bệnh nhân sẽ cảm nhận được cơn đau rõ rệt. Tuy nhiên, trước khi thực hiện thủ thuật, bác sĩ sẽ tiêm thuốc gây tê tại chỗ, giúp giảm bớt cảm giác đau ở da và màng xương.
3. Đau do rút tủy xương: Đây là cơn đau không thể tránh khỏi. Khi kim tiêm vào khoang tủy xương và bắt đầu hút tủy ra, áp suất thay đổi sẽ khiến bệnh nhân cảm thấy đau nhức sâu bên trong. Để giảm bớt khó chịu, bác sĩ thường thực hiện thao tác rút tủy một cách chậm rãi.
Lượng tủy cần lấy phụ thuộc vào từng trường hợp bệnh. Một số bệnh nhân chỉ cần hút khoảng 1ml đã có đủ mẫu xét nghiệm, nhưng có những trường hợp phải lấy nhiều hơn để làm thêm các xét nghiệm về gen, khi đó có thể cần dùng đến ống tiêm 20ml.
Trợ thủ sẽ đứng đối diện bác sĩ thực hiện thủ thuật, quan sát tình trạng bệnh nhi, hỗ trợ thao tác và chuẩn bị tiêu bản tủy xương. Sau khi tủy được rút ra, bác sĩ sẽ nhỏ một phần mẫu tủy lên lam kính để làm tiêu bản, tương tự như cách học sinh trung học quan sát tiêu bản lá cây dưới kính hiển vi. Đối với bệnh nhi lần đầu chẩn đoán, cần ít nhất năm tiêu bản tủy xương để đảm bảo độ chính xác.
Điền bác sĩ dặn dò các học sinh: “Xỏ lỗ xương so với các thủ thuật khác ít nguy hiểm hơn, không cần quá căng thẳng.”
Nói một cách đơn giản, lấy tủy xương sẽ được thực hiện trên những khối xương lớn trong cơ thể. Khác với kỹ thuật chọc dò tĩnh mạch sâu, vốn đòi hỏi phải định vị một mạch máu nhỏ nằm sâu trong cơ thể, xỏ lỗ xương dễ thực hiện hơn nhiều. So với thủ thuật chọc dò tủy sống (eo xuyên), xỏ lỗ xương cũng an toàn hơn, bởi nếu chọc tủy sống không cẩn thận có thể ảnh hưởng đến não bộ của bệnh nhân.
Xương là cấu trúc có thể sờ thấy qua da, do đó kim tiêm có thể dễ dàng định vị chính xác vị trí cần chọc, giảm thiểu nguy cơ sai sót và biến chứng. Hơn nữa, bác sĩ có thể linh hoạt lựa chọn nhiều vị trí khác nhau để lấy tủy xương. Nếu một vị trí không phù hợp, họ có thể chuyển sang một khối xương khác.
Trong lâm sàng, ba vị trí thường được chọn để lấy tủy xương là:
- Xương ức
- Xương chậu
- Xương ống chân
Trong đó, xương chậu là vị trí thuận lợi nhất do chứa nhiều tủy xương, giúp việc lấy mẫu dễ dàng hơn. Với trẻ dưới sáu tháng tuổi, bác sĩ thường chọn xương ống chân vì đây là vị trí an toàn nhất.
Xương ức tuy có thể lấy tủy nhưng rủi ro cao, dễ gây biến chứng. Nhất là trong trường hợp này, với một gia đình khó đối phó như nhà Đào Đào, bác sĩ càng không dám mạo hiểm dùng xương ức, mà quyết định chọn vị trí an toàn hơn—xương chậu. Khi lấy tủy từ xương chậu, bác sĩ có thể chọn điểm chọc kim ở gai chậu trước trên hoặc gai chậu sau trên.
Trương Đức Thắng, một học sinh từng thực tập tại khoa huyết học bệnh viện Quốc Hiệp, đã từng hỗ trợ bác sĩ làm thủ thuật này. Vì vậy, Điền bác sĩ quyết định chỉ định cậu thực hiện mũi chọc xương.
Triệu Triệu Vĩ đứng bên cạnh hỗ trợ.
Vài sinh viên khoa ngoại không có cơ hội thực tập ở khoa huyết học đứng ngoài quan sát. Đặc biệt nhất là Tạ Uyển Oánh, người được gia đình bệnh nhi chỉ đích danh nhờ chăm sóc đứa trẻ, lúc này đang đứng cạnh bác sĩ thực hiện thủ thuật, giúp giữ chặt bệnh nhi.
Trong bất kỳ thủ thuật chọc kim nào, việc xác định chính xác vị trí giải phẫu là quan trọng nhất.
Trương Đức Thắng đeo găng tay vô khuẩn, dùng đầu ngón tay vuốt nhẹ lên vùng xương hông của đứa trẻ, đồng thời đưa mắt hỏi Tạ Uyển Oánh: "Ta sờ đúng vị trí chưa, Oánh Oánh?"
Mọi người đều biết Tạ Uyển Oánh là một cao thủ trong việc định vị giải phẫu. Những sinh viên thông minh trong lớp đều sẽ tranh thủ cơ hội này để tham khảo ý kiến của nàng.
Do bệnh nhi đang nằm ngửa, Tạ Uyển Oánh suy đoán Trương Đức Thắng có thể muốn chọc kim từ gai chậu trước trên. Nàng khẽ nhắc nhở: "Nếu ngươi chưa nắm chắc, có thể chọn gai chậu sau trên sẽ tốt hơn. Gai chậu sau trên có bề mặt xương rộng hơn gai chậu trước trên, chọc kim sẽ dễ dàng hơn. Nếu ngươi lo lắng về việc cố định tư thế bệnh nhi, chúng ta có thể hỗ trợ."
Nếu tra bản đồ giải phẫu, có thể thấy gai chậu sau trên có bề mặt xương rộng hơn gai chậu trước trên một chút. Bề mặt xương càng rộng thì kim chọc càng dễ tiếp xúc, giúp thao tác ổn định hơn. Ngược lại, nếu bề mặt xương nhỏ, kim chọc có thể dễ bị trượt, khó tạo góc vuông để chọc vào.
Góc chọc kim vuông góc vô cùng quan trọng. Bản chất của thủ thuật này là xuyên qua lớp xương, mà xương thì cứng, cần phải dùng lực. Chọc kim vuông góc giống như đóng đinh bằng búa, lực sẽ tập trung tốt hơn, giúp giảm tối đa tổn thương đến xương của trẻ.
Trong thực hành lâm sàng, có một số trường hợp xương rất khó xuyên. Khi các bác sĩ có kinh nghiệm thực hiện thủ thuật, nếu gặp tình huống như vậy, họ phải dùng nhiều lực, thậm chí biểu cảm trên mặt cũng thể hiện sự gắng sức. Nhưng lực dùng phải có mức độ, không thể quá mạnh.
Trương Đức Thắng lần đầu thực hiện, tất nhiên không dám mạnh tay ngay lập tức. Nếu không thể chọc kim vuông góc, kim không thể xuyên vào xương, lúc đó không chỉ thao tác thất bại mà tâm lý người thực hiện cũng dễ dao động, thua xa những bác sĩ dày dạn kinh nghiệm.
Trong thực tế lâm sàng, tỷ lệ cốt tủy bị pha loãng khi chọc hút tủy xương khá cao. Cốt tủy bị pha loãng có nghĩa là không rút được đủ tủy hoặc lượng tủy hút ra quá ít, phần lớn mẫu xét nghiệm bị lẫn máu. Khi đó, mẫu thử gửi đi xét nghiệm có thể không đạt tiêu chuẩn, buộc phải chọc lại, tương đương với việc thủ thuật thất bại.
Về vấn đề chọn vị trí gai chậu sau trên, bệnh nhi cần phải nằm sấp, điều này có thể gây ảnh hưởng đến hô hấp. Có lẽ vì vậy mà Trương Đức Thắng không dám chọn vị trí này, phần lớn là do gia đình bệnh nhi quá khó tính, khiến bác sĩ cũng không dám mạo hiểm.
Nếu không muốn cho bệnh nhi nằm sấp, một cách khác là để trẻ nằm nghiêng, co đầu gối sát người để lộ gai chậu sau trên.
Tư thế này không dễ cố định. Vì vậy, Trương Đức Thắng quyết định nghe theo ý kiến của Tạ Uyển Oánh.
Dù việc điều chỉnh tư thế có phần khó khăn, nhưng so với hậu quả khi chọc kim vào gai chậu trước trên mà không thành công, khiến kim bị lạc bên trong mất thời gian định vị lại, thì việc làm theo lời Tạ Uyển Oánh vẫn an toàn hơn nhiều.
Có đồng học hỗ trợ, không cần quá lo lắng.
Trương Đức Thắng báo cáo với thầy Hướng Điền về quyết định chọn gai chậu sau trên, thầy Điền và thầy Vương đều đồng ý.
Ngay lập tức, các sinh viên cùng nhau giúp bệnh nhi điều chỉnh tư thế. Hai sinh viên khoa ngoại cũng tiến lên hỗ trợ.
Việc thay đổi tư thế cho bệnh nhi cần được thực hiện cẩn thận. Khi cố định trẻ, điều quan trọng là kiểm soát vị trí khớp xương chứ không phải dùng lực đè ép lên người.
Về mặt lý thuyết, chọc kim vào gai chậu sau trên, nhưng thực tế điểm chọc chính xác là vùng nhô lên giữa gai chậu sau trên và đốt sống thắt lưng thứ năm.
Sau khi giúp bệnh nhi điều chỉnh tư thế, Trương Đức Thắng cảm thấy khác biệt rõ rệt. Khi mang găng tay sờ lại vị trí, hắn có thể dễ dàng cảm nhận được bề mặt xương bằng phẳng hơn. Điều này chứng tỏ tư thế hiện tại đã giúp lộ rõ vị trí giải phẫu cần thiết. Không giống lúc đầu, khi sờ vào gai chậu trước trên chỉ cảm nhận được một điểm lồi nhỏ, khó xác định chính xác nơi chọc kim.
Nghĩ đến việc tư thế này là do Tạ Uyển Oánh gợi ý, Trương Đức Thắng không khỏi thầm khen ngợi: Tạ Uyển Oánh đúng là lợi hại!
Có thể xác định được điểm chọc kim tốt, bác sĩ sẽ càng tự tin hơn.
Tinh thần Trương Đức Thắng phấn chấn hẳn lên. Hắn tiêm thuốc tê chính xác vào màng xương, động tác gọn gàng dứt khoát. Khi kim chọc xuyên qua xương, nhờ tư thế bệnh nhi đã được cố định tốt, kim đi vào một cách suôn sẻ. Ngay khi đẩy pit-tông ống tiêm, hắn nhanh chóng cảm nhận được có chất lỏng được hút lên. Quá trình diễn ra thuận lợi đến mức không thể tin nổi.
Khi thao tác nhanh gọn, bệnh nhi sẽ giảm đau đớn và khó chịu rất nhiều. Trẻ con cũng giống như người lớn, điều đáng sợ nhất chính là cơn đau kéo dài.
Thấy học trò của mình dễ dàng rút đủ ba ống tủy xương, hai giám sát viên hài lòng gật đầu: "Làm rất tốt! Không cần thầy chỉ đạo, tự mình đã có thể xử lý được."
Những sinh viên đứng ngoài quan sát đều hiểu rõ, Trương Đức Thắng thành công như vậy là nhờ ai. Ánh mắt bọn họ đồng loạt hướng về phía Tạ Uyển Oánh, thầm tính toán: Lần sau ta mà làm, nhất định phải kéo nàng đi theo giúp đỡ.
Bên ngoài phòng điều trị, Trương Lập và vợ là Liễu Kim Ngân đứng thấp thỏm chờ đợi, thỉnh thoảng thì thầm với nhau.
"Nếu bọn họ làm Đào Đào đau, chỉ cần con kêu lên, ta lập tức xông vào ngay!" Liễu Kim Ngân – với tư cách là mẫu thân – quả quyết nói, hoàn toàn không tin bác sĩ có thể giữ yên con mình: "Chắc chắn bọn họ đã trói chặt Đào Đào lại rồi!"
Chỉ cần nghĩ đến cảnh con trai nhỏ bị nhân viên y tế "bắt nạt", gương mặt tội nghiệp giàn giụa nước mắt, lòng nàng đau như cắt. Hai mắt đỏ hoe, nước mắt chực trào ra.
Trương Lập không những không can ngăn vợ, ngược lại còn cổ vũ: "Ngươi cứ vào trước, ta sẽ gọi thêm người theo sau!"
"Ngươi gọi ai?" Liễu Kim Ngân nhìn chồng đầy nghi hoặc.
Lúc đưa con vào bệnh viện này chữa trị, Trương Lập đã để ý thấy có người mang theo camera lảng vảng gần đó, có vẻ là phóng viên của một tòa soạn nào đó.
Thực ra, những phóng viên này vốn đang theo dõi tin tức về nhà họ Hách. Hai ngày trước, cháu trai của Hách gia nhập viện ở khoa Nhi mà vẫn chưa xuất viện.
"Ngươi gọi phóng viên đến sao?" Liễu Kim Ngân hỏi lại.
Trương Lập không gọi, nhưng cũng không quan tâm. Chỉ cần hắn qua đó nói rằng có một tin nóng, đám phóng viên chắc chắn sẽ kéo tới ngay lập tức.
(Phóng viên: Ngươi nghĩ nhiều quá rồi!)
Lúc này, cánh cửa phòng điều trị mở ra, một y tá bước ra thông báo: "Xong rồi, không có vấn đề gì cả. Người nhà có thể vào xem bé."
Không có chuyện gì? Thật sự không có chuyện gì sao?
Suốt quá trình làm thủ thuật, nàng không nghe thấy con trai khóc gọi "mụ mụ", điều này thật kỳ lạ. Phụ huynh ai cũng biết chọc tủy xương đau đến mức nào. Thế nhưng tại sao con trai nàng lại không có phản ứng?
Liễu Kim Ngân vốn đã chẳng mấy tin tưởng nhân viên y tế, lòng đầy lo lắng, sốt ruột chạy ngay vào phòng, giọng gấp gáp: "Đào Đào! Đào Đào! Mụ mụ ở đây! Con thế nào rồi?"
Đến bên giường bệnh, cảnh tượng trước mắt khiến nàng sững sờ—con trai nàng đang rúc vào lòng bác sĩ.
"Đào Đào!" Liễu Kim Ngân vươn tay về phía con, giọng dịu dàng dỗ dành: "Nào, lại đây với mụ mụ. Không sao nữa rồi, mụ mụ thương con mà. Mụ mụ thề, lần sau nhất định không để bọn họ làm đau con nữa, tuyệt đối không để con chịu khổ!"