Vào năm đó, Đường Thiên Tiêu chín tuổi, vẫn còn chưa biết đến tiết trời dai dẳng, lất phất đầy mưa bụi của đất Giang Nam này. Thế nhưng cho dù đã ở trong Hoàng cung Thụy Đô nhiều năm rồi, trong kí ức của ngài, năm đó vẫn là năm thê thảm nhất.
Sắc trời ảm đạm, mịt mùng, mặt đất ẩm ướt, bẩn thỉu, trong không khí ngập đầy mùi vị ẩm mốc, ướt át.
Ánh mắt của tất cả mọi người đều vô cùng khó hiểu, ngần ngại, chỉ muốn tránh xa ngài ra, thế nhưng vào những lúc không thể không đối mặt với ngài thì lại mỉm cười gian tà, mỉa mai lên tiếng gọi: “Thái tử”.
Ngài là Thái tử.
Sau khi tiên đế băng hà được hai mươi mốt ngày, ngài vẫn cứ là một thái tử.
Chẳng ai có thể đoán trước, sau hai mươi mốt ngày nữa, ngài sẽ trở thành vị quân vương mới của Đại Chu, hay là một thái tử bị phế của Đại Chu, tồi tệ hơn nữa, rất có thể còn trở thành một cái xác lạnh lẽo, vô hồn.
Sống hay chết, phú quý hay bần tiện, trời hay đất, tất cả đều vô cùng mong manh. Khoảng cách vô cùng ngắn ngủi.
Tiên đế Đường Thừa Nguyên bệnh nặng, trước khi qua đời đã để lại Thánh chỉ, lệnh cho Tề vương Đường Thừa Sóc, thừa tướng Trịnh Dương cùng Định Bắc đại tướng quân Vũ Văn Khởi và các văn võ bá quan trong triều đưa thái tử đăng cơ tiếp vị.
Đại quyền triều chính nhanh chóng rơi vào tay Tề vương Đường Thừa Sóc, nhưng đến tận lúc này vẫn chưa có ai chịu đưa bàn tay ra kéo vị thái tử yếu đuối, nhỏ tuổi dắt lên ngai vàng diễm lệ, quyền thế và uy nghi kia.
Mặc dù, ai cũng biết rằng, người con trai thứ được tiên đế Đường Thừa Nguyên yêu thương và trao lại ngai vàng chính là ngài.
Đường Thừa Nguyên trước kia đã rất nhiều lần bế ngài trên đùi, ngồi trên chiếc ngai vàng ngự trên cao vót, uy nghi, bề thế kia, muốn cho các thần tử thấy đứa con yêu thông minh tuyệt đỉnh của mình.
Lúc đó, không chỉ tiền triều mà ngay cả hậu cung, mọi người đều đánh giá ngài vô cùng xuất chúng, tài giỏi. Một thần đồng trong hiện tại, một quốc vương trong tương lai. Một đế vương bẩm sinh, tiền đồ xán lạn, rực rỡ vô ngần.
Ngay bản thân Đường Thiên Tiêu cũng cho rằng, đây không phải là lời đồn thổi vô căn cứ, không phải hoang tưởng mà là lẽ đương nhiên và điều tất yếu này trong thực tế có được là vì phụ hoàng của ngài là một Hoàng đế, hơn nữa còn là Hoàng đế nắm thực quyền trong tay, cho nên con trai của ngài mới đường đường chính chính nhận được lời khen ngợi, đánh giá cao của tất cả mọi người.
Ngày nay, phụ hoàng của ngài chỉ còn là cái xác lạnh lẽo không hồn, đang nằm trên đại điện, trong chiếc quan tài tối tăm, dưới hàng trăm hàng ngàn những cây nến trắng, từ từ, từ từ phân hủy.
Chẳng có ai để tâm đến phụ hoàng. Cho dù trước kia phụ hoàng đã đạp cả thiên hạ này dưới chân, khiến cho tất cả mọi người phải quỳ rạp, thần phục quỳ dưới chân mình. Ngày nay, phụ hoàng chỉ còn là một cái xác lạnh lẽo từ từ phân hủy theo thời gian, ngay cả việc bình an nhập thổ cũng khó khăn đến vậy!
Những khi giọt nến rơi xuống càng nhiều, ngài lại ngờ rằng phải chăng phụ hoàng đang nhỏ lệ xót thương cho bản thân, cho đứa con của mình?
Tất cả những thái giám và cung nữ túc trực, trông chừng đều đang dựa cột trụ nhắm mắt ngủ gật, ngay cả khi Thái tử chín tuổi lại gần thắp thêm hương, bọn chúng cũng không hề thức dậy.
Ngài hoàn toàn không hiểu rốt cuộc là vì sao?
Tất cả những chuyện tày đình này dường như chỉ xảy ra trong thời gian một đêm ngắn ngủi, đối với ngài mà nói, tất cả xảy ra thật quá đỗi nhanh chóng, quá đỗi xa lạ và cũng quá đỗi đáng sợ.
Tuyên thái hậu, người mẫu hậu duy nhất có thể tin tưởng, dựa dẫm lúc này chỉ biết ôm chặt lấy ngài, khuôn mặt nhòe nhoẹt nước mắt, nghiến răng nghiến lợi chẳng nói một câu nào.
Ngài rời khỏi linh đường của phụ hoàng, đi trên con đường đen tối, dị thường của Hoàng cung, theo bản năng, ngài đi về nơi có ánh sáng rực rỡ chiếu ra.
Trước cung Tụy Thưởng, huynh trưởng Đường Thiên Tả đang đá cầu cùng mấy tên tiểu thái giám.
Một đám cung nữ đang đứng vây quanh chỗ Đường Thiên Tả, vỗ tay vui vẻ, hân hoan đếm số tâng cầu giúp: “Hai mốt, hai hai, hai ba…” Đáng tiếc lúc này quả cầu bị đá lệch đi, vút qua đầu người rơi xuống bên cạnh chỗ Đường Thiên Tiêu đứng.
Từ trước đến nay, chưa từng có ai dạy Đường Thiên Tiêu đá cầu, có điều ngài biết chút võ nghệ nên thân thủ cũng khá lanh lợi, nhanh nhẹn. Võ nghệ của ngài là do Đường Thừa Nguyên đích thân dạy bảo, sư phụ của ngài cũng là nhân vật lợi hại tuyệt đỉnh được Đường Thừa Nguyên mời về từ nơi xa xôi ngàn dặm, còn ngài tư chất thông minh, lanh lợi nên học rất nhanh.
Cho nên, ngài nhẹ nhàng đỡ lấy quả cầu đột nhiên rơi về phía mình, rồi cũng thảnh thơi đá lên, tự mình đếm: “Một, hai, ba, bốn…”
Đám cung nữ cũng quay lại nhìn về phía ngài, nhưng đứng từ tận phía xa xôi, vô cùng thận trọng, cứ như thể ngài là một người mắc bệnh phong, đứng gần quá sẽ dễ bị lây nhiễm.
Ngài đá đến tận quả thứ ba mấy vẫn chẳng hề có ai cổ vũ, reo hò. Còn Thiên Tả cũng bắt đầu ra tay đáp trả.
Đường Thiên Tả đẩy mạnh Đường Thiên Tiêu sang một bên, đá quả cầu bay vút sang một bên, sau đó lên tiếng mắng mỏ: “Ngươi muốn chơi thì an phận quay về chỗ hoàng hậu nương nương mà chơi! Ta phải xem xem ngươi còn có thể chơi được mấy ngày nữa”.
Thiên Tiêu ngã xuống đất, một hồi lâu sau vẫn chẳng thể nào định thần lại được.
Thiên Tả là con trưởng không sai, mẫu thân của Thiên Tả là Lệ phi, là con gái của thừa tướng Trịnh Dương không sai. Trong triều đình, Trịnh Dương có tiếng nói uy lực cũng không sai. Thế nhưng chỉ cần nhìn vào tên gọi của hai người là có thể biết ngay Đường Thừa Nguyên đặt sự mong mỏi khác biệt vào hai đứa con này của mình.
Tiêu, bầu trời cao vời vợi, lại là con trưởng của chính cung hoàng hậu được Hoàng thượng vô cùng sủng ái, nên địa vị chí cao vô thượng, trên chín tầng mây, nghe thôi cũng đủ biết được hàm ý và mong mỏi Đường Thừa Nguyên gửi gắm trong đó rồi.
Tả, cũng có nghĩa là bên trái. Phải là tôn quý, còn trái là thấp hèn. Những người này chỉ có thể làm người trợ lực, giúp sức cho người khác mà thôi.
Lúc Đường Thừa Nguyên cho Đường Thiên Tiêu ngồi trên đùi nhìn xuống triều đường thì Đường Thiên Tả lớn hơn ngài bốn tuổi chỉ có thể đứng cạnh bên lắng nghe các đại thần bẩm tấu mà thôi.
Một lúc lâu sau, Đường Thiên Tiêu mới lên tiếng: “Đại hoàng huynh, huynh sao thế? Đệ chơi cùng hoàng huynh một lát không được sao?”
Thiên Tả liền bật cười ngạo mạn nói: “Được hay không thì còn phải xem ta có vui vẻ không đã. Ta khuyên ngươi và cả mẫu hậu của ngươi nữa, hãy an phận một chút thì tốt hơn”.
Thiên Tiêu ngậm miệng lại, có rất nhiều điều muốn nói ra, nhưng sau cùng chẳng thể nào cất lên thành lời được. Mẫu hậu sau khi phát hiện ra phụ hoàng bị thương nặng, khó lòng qua khỏi đã căn dặn ngài rằng: Nói ít đi, nhìn nhiều, hành sự phải hết sức thận trọng, nhẫn nhịn là trên hết. Ngài thầm nghĩ, bản thân một mình chạy ra ngoài, còn đá cầu cùng với Đường Thiên Tả, phải chăng là sai lầm?
Nhìn về phía tẩm cung u tối, đen ngòm của mẫu hậu, ngài cúi thấp đầu xuống, đang định giả vờ như không có bất cứ chuyện gì xảy ra, lặng lẽ quay về thì bên cạnh xuất hiện một đôi bàn tay to lớn, kéo xốc ngài đứng dậy.
“Thiên Tiêu, tại sao đệ lại ngồi trên mặt đất ướt thế hả?”
Người này có đôi mắt đen láy, sâu hoắm, tính cách âm trầm, lặng lẽ, chính là con trai trưởng của Tề vương Đường Thừa Sóc, Đường Thiên Trọng.
Tuy Thiên Trọng lớn hơn Thiên Tiêu có vài tuổi, nhưng từ nhỏ được phụ vương đưa đi Nam chinh Bắc chiến khắp nơi, sớm quen với chuyện binh đao, chết chóc, tuổi còn nhỏ mà thân người lại toát ra khí thế khiến người khác phải khiếp sợ, càng khiến cho những người ở cùng độ tuổi kính nể, khâm phục và tránh xa.
Thế nhưng Thiên Trọng và Thiên Tiêu vừa là anh em họ bên nội lại là anh em họ bên ngoại, thỉnh thoảng cũng đi theo mẫu thân vào thăm Tuyên hoàng hậu, nên cũng thường xuyên gặp mặt Thiên Tiêu, tình cảm thân thiết chẳng khác gì huynh đệ chính tông.
Thiên Tiêu liền đứng dậy, nhìn y phục dính nước bẩn của mình lại nhìn về phía Thiên Tả bắt đầu vui vẻ chơi đùa trở lại rồi nói: “Không có gì hết. Chỉ có điều… phụ hoàng qua đời rồi, có nhiều thứ đã không còn được như trước kia nữa”.
Thiên Trọng im lặng một hồi lâu, sau đó mới lên tiếng: “Mẫu thân ta cũng không an tâm, nhưng phụ thân nói tình hình trong cung lúc này không ổn, không cho mẫu thân nhập cung. Phải chăng là…”
Thiên Trọng cau chặt đôi mày, bước lại gần chỗ Thiên Tả đang chơi đùa rồi nghiêm nghị lên tiếng: “Tiên đế vừa mới băng hà, còn chưa kịp nhập thổ, ai dám đùa giỡn gây náo loạn trong cung hả?”
Thiên Tả kinh ngạc, quả cầu lại bị đá chệch đi, ánh đèn chập chờn, nhất thời chưa kịp nhận ra người vừa lên tiếng là ai liền tức giận quát lại: “Ai dám to tiếng trong cung? Lôi ra chém”.
Đợi đến khi nhìn rõ người vừa nói, Thiên Tả bất giác lùi lại phía sau, miễn cưỡng mỉm cười đáp: “Thì ra là… thế tử Tề vương…”
Thiên Trọng cũng bình thản mỉm cười nói: “Thì ra là đại Hoàng tử điện hạ! Là vi thần thất lễ rồi. Người đệ đệ Thiên Tiêu của vi thần tuổi còn nhỏ, sau này, vẫn mong đại Hoàng tử chiếu cố, quan tâm nhiều”.
Ngài liền hành lễ, quay người lại dắt Thiên Tiêu rời khỏi nơi đó, đích thân đưa Thiên Tiêu về đại điện đang đặt quan tài của tiên đế.
Thiên Tiêu bất giác lên tiếng hỏi: “Thiên Trọng ca ca, hiện nay có bao nhiêu người muốn giết chết mẹ con đệ?”
Thiên Trọng ngước mắt nhìn về phía cung điện tối tăm, mịt mùng trước mặt rồi nhẹ nhàng lên tiếng: “Có lẽ là… rất nhiều đấy”.
“Bao gồm cả hoàng thúc sao?”
Thiên Trọng ngây người, do dự trong giây lát rồi mới đáp lại: “Không đâu, phụ thân sẽ không gây tổn thương cho đệ đâu”.
Thiên Trọng chỉ do dự trong giây lát mà đã khiến cho Thiên Tiêu lo lắng, hồi hộp vô cùng.
Thiên Tiêu khẽ dừng bước lại. Thiên Trọng nhận ra sự hoảng hốt, bất an của Thiên Tiêu, đôi mắt trở nên hiền hòa, dịu dàng hơn, nắm chặt lấy bàn tay của Thiên Tiêu rồi mỉm cười nói: “Yên tâm đi, ta sẽ bảo vệ đệ. Mẫu thân ta cũng sẽ bảo vệ đệ và mẫu thân đệ, nhất định không để cho ai làm hại đến hai người đâu”.
Tuy chỉ là lời hứa sẽ không để ai làm hại đến hai người, nhưng cũng đủ mang lại tia hy vọng nhỏ nhoi cho Đường Thiên Tiêu trong những ngày tháng mịt mùng, tăm tối, nguy cơ trùng trùng khắp chốn.
Cả hai đều hiểu rõ một điều, trong tình hình căng thẳng hiện nay, ngôi vị Hoàng thượng và sinh mệnh đã gắn chặt với nhau như hình với bóng rồi.
Nếu như Đường Thiên Tiêu không thể nào ngồi lên ngôi vị Hoàng đế, vậy thì bất kể sau này người ngồi lên ngai vàng đó là ai thì nhất định sẽ không dễ dàng tha cho thái tử điện hạ danh chính ngôn thuận trước kia được.
Vào lúc này, Đường Thiên Trọng đã dùng bàn tay to lớn của mình truyền hết mọi sức mạnh và hơi ấm sang bàn tay của Đường Thiên Tiêu, tận hết sức mình để vỗ về, an ủi cho Thiên Tiêu.
Rất nhiều năm sau này, cho dù có căm hận Đường Thiên Trọng đến mức thấu xương, Đường Thiên Tiêu vẫn luôn nhớ về buổi đêm tăm tối, mịt mờ hôm ấy, đêm mưa gió ướt át hôm ấy, người thiếu niên mười ba, mười bốn tuổi đã đưa bàn tay ấm áp, to lớn về phía ngài.
Cho dù mới chỉ có chín tuổi, nhưng Thiên Tiêu cũng hiểu được mẫu hậu với Tề vương Đường Thừa Sóc dường như có điều gì bất hòa.
Tuy Tề vương phi thường xuyên vào cung trò chuyện cùng với tỷ tỷ, tình cảm thân thiết vô cùng, nhưng mẫu hậu lúc nào cũng nghĩ đủ mọi cách để tránh gặp mặt em rể, ngay cả vào những bữa tiệc hoàng thất, người cũng thường xuyên cáo bệnh không tới mỗi khi Tề vương có tham dự. Đến mức mà ngay cả tiên đế Đường Thừa Nguyên cũng mấy lần nói đùa rằng, hai người thân thiết nhất của ngài đều là những người cứng nhắc, khó tính.
Thế nhưng Tề vương Đường Thừa Sóc đối với Thiên Tiêu vô cùng tốt, những khi tình cờ gặp trong cung, ngài thường bế Thiên Tiêu vào lòng, hỏi han nói chuyện, khuôn mặt hiền từ mà thân thiết.
Có lẽ cũng chính vì việc này mà Đường Thừa Nguyên mới dám trao đứa con nhỏ tuổi của mình cho người huynh đệ nắm giữ đại quyền trong tay.
Thế nhưng lúc này, Đường Thừa Sóc lại đang liên hợp cùng thừa tướng Trịnh Dương và Văn Vũ tướng quân nắm đại quyền triều chính trong tay, phớt lờ di chỉ của tiên đế, có ý định phế thứ lập trưởng.
Thiên Tiêu quay về hỏi Tuyên hoàng hậu đang ốm liệt giường: “Mẫu hậu, phải chăng vài ngày nữa có một ai khác đến và dễ dàng chém đầu con đi đúng không?”
Tuyên hoàng hậu kinh ngạc hỏi lại: “Ai đã nói với con điều gì đúng không?”
Thiên Tiêu liền đáp: “Đại hoàng huynh cảnh cáo con phải biết an phận thủ thường, ngay cả đá cầu cùng không cho phép”.
“Thằng con trai của con tiện tì kia…” Tuyên hoàng hậu nắm chặt chiếc khăn trong tay, mỉm cười đáp lại: “Bọn chúng thật sự coi ta là người chết rồi hay sao?”
Thiên Tiêu liền thì thầm lên tiếng: “Nếu như Thiên Tả lên ngôi kế vị, đương nhiên hai mẹ con chúng ta sẽ trở thành người chết rồi”.
Tuyên hoàng hậu liền tuôn trào nước mắt, khuôn mặt tiều tụy mà vẫn xinh đẹp khác thường hiện rõ nét đau khổ, bất an. Người ôm lấy Thiên Tiêu vào lòng rồi bật khóc nức nở: “Tại sao ngươi phải ép ta đến mức này? Tại sao ngươi lại phải ép ta đến mức này? Nếu như mọi chuyện đã đến nước này rồi thì cả hai chúng ta đều buông tay đi, không được sao? Không được sao?”
Thiên Tiêu ngây ngô nửa hiểu nửa không hiểu. Chắc chắn mẫu hậu đang mắng nhiếc Lệ phi. Thế nhưng lời nói của mẫu hậu lại chẳng giống như đang mắng Lệ phi chút nào.
Buổi đêm hôm đó, Tuyên hoàng hậu khóc lóc thảm thương, so với khi tiên đế qua đời, dường như còn thương cảm, thảm thiết với cả nỗi sợ hãi, hoảng hốt không biết phải làm thế nào.
Không lâu sau, Thiên Tiêu liền hiểu mọi chuyện. Cho dù lúc đó không hiểu thì sau đó ngài cũng dần dần hiểu ra.
Một ngày sau, sáng sớm ngài đã đến tẩm cung thăm mẫu hậu, vừa đúng lúc nhìn thấy Tề vương Đường Thừa Sóc bước ra khỏi tẩm cung của người.
“Thiên Tiêu, dạo này lại cao hơn rồi đấy”. Lúc này tâm trạng của Tề vương dường như rất vui, mỉm cười dịu dàng, vỗ nhẹ lên đầu ngài.
“Hoàng thúc”.
Thiên Tiêu kính cẩn hành lễ, lại nhìn về phía cánh cửa cung vừa mới khép lại.
Tề vương nắm chặt lấy bàn tay của Thiên Tiêu rồi nói: “Mẫu hậu của Thiên Tiêu gần đây mệt mỏi, cứ để cho người nghỉ ngơi thêm giây lát nữa đi. Đi thôi, hoàng thúc tặng cho Thiên Tiêu một món quà nhỏ”.
Thiên Tiêu từ trước giờ vẫn không thể hiểu được, trong lòng Tề vương thì cái gì mới được gọi là đại lễ, là món quà lớn.
Món quà nhỏ mà Tề vương tặng cho Đường Thiên Tiêu chính là giang sơn rộng lớn ba ngàn dặm của Đại Chu.
Đường Thiên Tiêu được đưa tới một chiếc ngai vàng to rộng, trống trải đến mức đáng sợ tiếp nhận sự bái lạy của các đại thần với những sắc mặt khác nhau. Ngài cũng chẳng cần thiết phải tìm hiểu xem tất cả những sắc mặt đa dạng này có ý nghĩa thế nào, bởi Tề vương tự mình sẽ hóa giải tất cả và giải quyết tất cả mọi việc một cách nhanh chóng, thần tốc.
Hoàng đế mới của Đại Chu cuối cùng đã kế vị ngai vàng hai mươi bốn ngày sau khi tiên đế băng hà, đổi niên hiệu thành Gia Hòa, sắc phong Tuyên hoàng hậu thành Tuyên thái hậu. Cuối cùng tiên đế Đường Thừa Nguyên đã có thể bình an nhập thổ, lập thành miếu hiệu Võ, sau này thế nhân sẽ gọi ngài là Võ đế.
Vào tháng Sáu, Thừa tướng Trịnh Dương bị trảm vì tội mưu phản, dưới sự ủng hộ của Tuyên thái hậu và Vũ Văn Khởi tướng quân, Tề vương Đường Thừa Sóc một mình nắm hết đại quyền trong tay, từ Tề vương thăng lên thành Nhiếp chính vương.
Tháng Bảy cùng năm, Đường Thiên Tả lỡ chân ngã xuống hồ, bất hạnh qua đời vì ngộp nước, khi thi thể được vớt lên đã trương phình lên gấp đôi, mặt mày biến dạng, các thái giám đều không dám xử lý, đợi đến khi Tuyên thái hậu và Nhiếp chính vương truyền lệnh xuống thì thi thể đã bị phơi ngoài nắng nhiều ngày bốc mùi hôi thối.
Lệ phi đến nhìn thấy xác con trai liền hôn mê bất tỉnh, khi tỉnh lại luôn mồm luôn miệng nói có người ám hại, ám sát Hoàng tử, còn nói ra rất nhiều điều phỉ báng, sỉ nhục liên quan tới Tuyên thái hậu, liên quan tới Nhiếp chính vương. Bọn thái giám nghe thấy vậy, kinh hãi tới mức nhét vải vào miệng Lệ phi đến khi chảy máu mới chịu thôi, sau đó nói người bị phát điên, nhanh chóng tống vào trong lãnh cung.
Tháng Tám, Lệ phi bị phát giác thông gian cùng với thị vệ trẻ tuổi, nhanh chóng được ban cho một tấm vải trắng, rồi chôn cất một cách qua loa, hời hợt.
Cùng tháng này, có đại thần đưa chứng cứ chứng minh Lệ phi và đại Hoàng tử vô tội, sau nhiều lần bị Nhiếp chính vương cật lực phản đối, uất ức đâm đầu chết ngay trên đại điện.
Ngày mùng chín tháng Chín, một người con khác của Lệ phi cũng qua đời do bạo bệnh.
Ngày mười bốn tháng Chín, có người hành thích Nhiếp chính vương, bị tru di cả nhà.
Thiên Tiêu đã từng tới xem xác chết của Đường Thiên Tả, cũng từng tới tẩm cung của Lệ phi sau khi nghe được lời đồn thổi, tận mắt nhìn thấy người hoàng đệ bị đồn thổi không phải là cốt nhục của tiên hoàng đang lăn lộn trên mặt đất, thậm chí còn đưa tay về phía người hoàng huynh của mình đưa lời cầu cứu, sau cùng vẫn cứ chết do thất khiếu chảy máu.
Khi ngài nói chuyện này lại cho mẫu hậu, Tuyên thái hậu tỏ ra vô cùng lạnh nhạt.
Người liền nói: “Thiên Tiêu con có biết không? Đáng lẽ người bị chết đuối hoặc ban thuốc độc kia chính là bản thân con đấy. Và đáng lẽ người quý phi được ban khăn trắng, chết trong tủi nhục, ô danh kia cũng có thể là mẫu thân đấy”.
Người lại nói tiếp: “Nếu như con không thận trọng, sợ rằng người tiếp theo gặp phải chuyện này chính là con đấy. Nếu như mẫu thân không cẩn trọng, thì người tiếp theo chết oan ức, tức tưởi cũng có thể là mẫu thân. Từ xưa đến nay lẽ trời là vậy, thắng làm vua, thua làm giặc mà. Khi đặt bút ghi lại lịch sử vốn dĩ uy danh xán lạn để lại tiếng thơm ngàn đời cũng có thể bị viết thành tiếng xấu muôn đời, ngược lại đáng lẽ để lại tiếng xấu muôn đời cũng có thể sửa cho lưu danh sử sách, tiếng thơm ngàn đời. Đừng cho rằng tất cả những người giữ lại được thủ cấp của mình sau này sẽ được lưu danh sử sách, người đời ca ngợi, đó chỉ là người đời sau viết hay lên để giữ danh dự cho họ mà thôi. Mười người chết oan ức thì có đến tám, chín người trán khắc rõ hai chữ “bỉ ổi”. Cho nên chúng ta nhất định không được thua, không được bại, càng không được chết”.
Chúng ta nhất định không được thua, không được bại, càng không được chết. Cho nên, người thua, người bại, người chết đi chỉ có thể là địch thủ của chúng ta mà thôi.
Từ đó trở đi, ngài cũng xem nhẹ cái chết của những huynh đệ tỷ muội thân thiết này, bởi vì nếu họ không chết thì rất có thể người chết chính là ngài. Hoàng vị của ngài chính là một sợi dây được buộc chặt trên cổ. Chỉ cần bất cẩn đôi chút là sợi dây đó sẽ thít chặt lại, lấy đi tính mạng của ngài.
Khi Thiên Tiêu được nhũ nương và các thị vệ chuyển tới tẩm cung mà trước kia thiên đế sinh sống thì Tuyên thái hậu cũng dọn sang cung Thọ Ninh.
Nhiếp chính vương từ đó cũng trở thành vị khách thường xuyên lui tới cung Thọ Ninh.
Thiên Tiêu thường nhớ đến mẫu thân, mỗi ngày thường tới cung Thọ Ninh mấy lần liền, thường không hẹn mà gặp Nhiếp chính vương tại đây.
Buổi chiều hôm đó, khi ngài đến cung Thọ Ninh thì không khí nơi đây vô cùng tĩnh lặng.
Cung nữ, thái giám đã lui đi cỗ khác từ lúc nào không hay, trong cung thoang thoảng mùi gỗ đàn hương dịu nhẹ, tấm rèm cửa tuyệt đẹp không ngừng tung bay trong gió. Lúc này, bỗng nghe bên tai văng vẳng tiếng đàn thoát tục, tinh tế của mẫu hậu.
Nhiếp chính vương ngồi vào vị trí trước kia Võ đế thường ngồi, đưa lưng tựa về phía sau, dùng ngón tay gõ lên chiếc bàn gỗ tạo nhịp phách, ngây người nhìn về phía Tuyên thái hậu. Từ trước đến nay, ngài chưa bao giờ thấy ánh mắt dịu dàng, nồng ấm của Nhiếp chính vương trên đại điện xử lý chuyện triều chính như lúc này, nụ cười tươi tắn trên khuôn mặt thanh tú, điển trai của ngài cho thấy rõ tâm trạng vui vẻ, hạnh phúc của ngài.
Tuyên thái hậu dường như vẫn chưa thể nào quên đi người phu quân mới mất của mình, trên người vẫn còn mặc bộ y phục màu trắng, giản dị không hoa văn, chỉ được may viền bằng vải màu tím, ngồi một chỗ đàn tì bà trông vô cùng xinh đẹp, thanh nhã, không hổ danh là quốc sắc thiên hương.
Người vốn dĩ đã là một đại mỹ nhân nổi danh trên thảo nguyên đại mạc, khi còn trẻ cùng với người muội muội ruột thịt của mình được người đời gọi là Đại Tuyên, Tiểu Tuyên.
Không biết khi đó hai tỷ muội đã là giấc mộng tuyệt đẹp của biết bao người thiếu niên, đoạt mất biết bao nhiêu trái tim của bọn họ.
Hai tỷ muội họ một người gả cho Võ đế, một người gả cho Nhiếp chính vương, đúng với câu, người đẹp lấy anh hùng, vô cùng xứng đôi vừa lứa.
Thế nhưng chuyện đời thường không được như ý của con người.
Đến khi Tuyên thái hậu đàn hết khúc nhạc, Nhiếp chính vương vô cùng hứng khởi đứng dậy kéo mạnh người vào vòng tay của mình, thận trọng ôm lấy chiếc eo thon khi người định tránh sang một bên, rồi nhẹ nhàng đặt một nụ hôn nồng thắm lên khuôn mặt xinh đẹp của Thái hậu.
Tuyên thái hậu cúi thấp đầu xuống, hai má hồng rực lên, dáng vẻ như đang muốn tránh né hành động thân mật, gần gũi của Nhiếp chính vương.
“Ngài hà tất phải làm vậy chứ?” Tuyên thái hậu than dài một tiếng: “Thừa Sóc, ngài làm thế này là hại người hại mình đấy”.
Nhiếp chính vương khép chặt vòng tay ôm Thái hậu vào lòng mình chặt hơn trước, rồi thầm thì bên tai: “Tình Uyển, ta không phải muốn hại người hại mình. Ta chỉ muốn… nàng đối diện với lời hứa năm xưa của nàng mà thôi. Nàng đã trốn tránh ta suốt mười ba năm nay, nếu như không ép buộc nàng như vậy, chẳng hiểu nàng sẽ còn trốn tránh ta đến tận lúc nào nữa?”
Hai mắt Tuyên thái hậu đỏ rực lên, giọng nói có đôi phần nghẹn ngào: “Là số trời định sẵn cũng được, hay do vận mệnh an bài cũng được, nói cho cùng đi đến tận bước đường của ngày hôm nay, ai có thể quay đầu được nữa chứ? Chẳng lẽ… ngài chưa từng nghĩ tới huynh trưởng của mình sao? Ngài cũng không hề nghĩ tới thê tử của mình hay sao?”
“Đừng có nhắc đến hoàng huynh trước mặt ta nữa”.
Nhiếp chính vương đột nhiên phẫn nộ, nắm chặt lấy cánh tay muốn né tránh của Tuyên thái hậu rồi nói: “Nàng cho rằng ta không biết gì hay sao? Nếu như không phải năm đó, huynh ấy phái ta tấn công doanh trại của địch rồi giả truyền tin tức là ta đã chết trận, sau đó thừa cơ hội, bắt phụ mẫu nàng phải gả nàng cho huynh ấy. Đáng hận là nàng lại dễ dàng tin rằng ta đã chết rồi? Sau đó, dễ dàng thuận theo huynh ấy như vậy? Sau đó nàng lại còn dám khuyên huynh ấy đem Tiểu Tuyên gả cho ta nữa. Nàng… nàng bảo ta phải làm thế nào đây hả?”
Tuyên thái hậu bị ngài kẹp chặt trong vòng tay không thể động đậy được bèn bật khóc thành tiếng rồi nói: “Tĩnh Nhu muội ấy thật lòng thật dạ với ngài. Từ khi còn là thân gái trinh trắng, muội đã biết tâm ý này của muội ấy, muội ấy lại ra sức cầu khẩn ta, làm sao mà ta có thể không cho muội ấy toại nguyện được chứ? Muội ấy… muội ấy có điểm nào không bằng ta chứ? Ngài không nên phụ lòng muội ấy”.
“Vậy nàng cũng không nên phụ lòng ta”.
Nhiếp chính vương tức giận, xé rách y phục trước ngực Tuyên thái hậu rồi cuồng dại du ngoạn trên đó.
Thiên Tiêu trốn đằng sau tấm rèm cửa, nhìn thấy mẫu hậu không ngừng khóc lên nức nở, nghẹn ngào, cũng chẳng biết là đang kích động hay đang đau khổ, theo bản năng muốn chạy lại giúp sức cho mẫu hậu, nhưng sau cùng lại hãi hùng lui về sau vài bước.
Bỗng nhiên “choang” một tiếng, Thiên Tiêu bất cẩn xô đổ chiếc lư hương bằng đồng phía sau.
Ngài sợ hãi quá, không dám động đậy chút nào.
Sau một hồi lặng im, ngài liền nghe thấy tiếng kiếm tuốt ra khỏi vỏ, Nhiếp chính vương nhanh chóng chạy tới.
Đôi mày của Nhiếp chính vương nhíu chặt lại, khuôn mặt dịu dàng ban nãy đã hoàn toàn biến mất, thanh kiếm trong tay sáng loáng, sắc nhọn, lạnh băng, xem ra lúc này ngài đang nộ khí xung thiên, dự định giết chết ngay kẻ to gan dám đến làm ngài mất hứng để giải trừ tức khí.
Khi nhìn thấy là Thiên Tiêu, Nhiếp chính vương tỏ ra bàng hoàng, thanh kiếm trong tay chỉ khẽ hạ xuống chứ không hề tra lại vào vỏ.
“Là con?”
Ngữ khí của Nhiếp chính vương không hề thân thiện chút nào.
Tuyên thái hậu lúc này đã chạy ra ngoài, lớn tiếng gọi tên con mình: “Thiên Tiêu”.
Bàn tay của Thiên Tiêu lạnh giá như băng.
Thế nhưng khi nhìn lướt qua khuôn mặt trắng cắt không còn giọt máu vì quá kinh hãi của mẫu hậu, Thiên Tiêu liền tiến lại gần, mỉm cười nhìn Nhiếp chính vương rồi nói: “Hoàng thúc, thì ra ngài đang ở đây. Trẫm còn đang lo không có ai nói chuyện, tán gẫu cùng mẫu hậu, người sẽ cảm thấy cô đơn đấy”.
Thiên Tiêu đi vòng qua thanh kiếm của Nhiếp chính vương, bước đến bên Tuyên thái hậu nắm lấy tay người rồi hỏi: “Mẫu hậu, hôm qua người ngủ có ngon không? Không phải lại nằm mơ thấy gì đó chứ? Lúc nãy nhi thần dường như nghe thấy tiếng khóc của mẫu hậu, vội vàng chạy tới đây, không may đâm trúng vào chiếc lư đồng này, nhi thần không làm kinh động đến mẫu hậu chứ?”
Tuyên thái hậu vuốt mái tóc của con mình rồi mỉm cười đáp: “Thì đúng là mẫu hậu đang khóc mà. Vừa nãy nhắc lại chuyện cũ cùng với hoàng thúc của con nên cảm thấy thương cảm mà thôi”.
Nhiếp chính vương lúc này đã tra kiếm vào trong vỏ, nộ khí cũng đã dịu xuống nhiều.
Nhiếp chính vương nắm tay Thiên Tiêu dắt đến chỗ của mình, ngồi xuống rồi cho Thiên Tiêu ngồi lên đùi mình. “Hoàng thúc bị con dọa cho chết khiếp, chỉ làm cái lư đồng đổ thôi mà con cũng khiến cho kinh thiên động địa như thế, ta còn tưởng có thích khách trong cung Thọ Ninh nữa cơ”.
Nhiếp chính vương liền lấy mấy quả quất vàng trên bàn đến rồi nói: “Thứ này được tiến cống từ phía Nam đến, con mau thử đi, chắc là rất ngọt đấy”.
Thiên Tiêu bóc vỏ rồi đưa cho mẫu hậu một quả, rồi lại đưa một quả cho Nhiếp chính vương, mỉm cười nói: “Hoàng thúc cũng thử một miếng đi. Ăn thứ này vào ngọt miệng, có thể nói thêm được mấy câu chuyện chọc cho mẫu hậu trẫm vui vẻ hơn. Mẫu hậu dạo này thường lo sợ người khác bắt nạt trẫm, nên ban đêm thường âm thầm khóc lóc”.
“Hả…” Nhiếp chính vương dường như đang nghĩ điều gì đó, rồi hỏi thêm: “Mẫu hậu của con thường hay khóc một mình sao?”
“Đúng thế”. Thiên Tiêu nhìn về phía Nhiếp chính vương, hai mắt phụng cười tít lại ngây thơ vô cùng rồi nói thêm: “Hoàng thúc rảnh rỗi thì thường xuyên tới nói chuyện hàn huyên cùng mẫu hậu nhé. Trẫm là người không biết ăn nói, thường chẳng biết phải dỗ dành mẫu hậu thế nào”.
“Ừm”. Nhiếp chính vương mỉm cười, vỗ nhẹ lên đầu Thiên tiêu rồi nói: “Thật ra, con cũng rất ngoan rồi”.
Thiên Tiêu dường như nghe thấy tiếng thở phào nhẹ nhõm của mẫu hậu.
Buổi tối hôm đó, khi Thiên Tiêu chuẩn bị nghỉ ngơi trong tẩm cung của mình thì Tuyên thái hậu tới thăm.
Ngài không thể ngủ ngay mà ôm lấy cổ mẫu hậu rồi hỏi: “Mẫu hậu, nhi thần có làm sai điều gì không?”
“Không, con làm mọi chuyện rất tốt”. Hai mắt Tuyên thái hậu lại đỏ rực lên, khẽ khàng vỗ lên lưng của Thiên Tiêu.
Ngài lại hỏi thêm: “Nếu như vào sáng nay, con nói điều gì đó không đúng, phải chăng hoàng thúc sẽ một kiếm đâm chết con luôn?”
Cả người Tuyên thái hậu cứng đờ, phải một lúc lâu sau mới lên tiếng: “Thiên Tiêu, con không được đắc tội với hoàng thúc. Sau này… con cứ đối xử với hoàng thúc giống như đối xử với phụ hoàng trước kia, có hiểu không?”
“Hiểu ạ, nhi thần hiểu rồi ạ, hiện nay, nhi thần và mẫu hậu chẳng khác nào cá nằm trên thớt”.
“Được… được… con trai của ta quả nhiên là thông minh tuyệt đỉnh”. Lúc này Tuyên thái hậu đã bật khóc thành tiếng, nức nở nói thêm: “Thế nhưng con phải nhớ rằng, thông minh quá không tốt đâu, ngốc nghếch một chút càng tốt hơn, có hiểu không?”
“Hiểu ạ, con sẽ ngốc nghếch ạ”. Thiên Tiêu ngẩng mặt lên, đôi mắt sáng lóa, thì thầm nói: “Khi ở tiền triều đối mặt với quần thần, nhi thần sẽ ngốc nghếch, vậy là đủ rồi”.
Cá nằm trên thớt, mặc người xử lý.
Thịt cá nằm trên thớt quá nhiều, người ta nhất định sẽ không động tới số cá được dành lại cho mùa đông dùng. Thế nhưng một khi phát hiện ra những con cá này muốn nhảy ra khỏi thớt trốn thoát, người ta nhất định sẽ một đao chém chết, quyết không do dự.
Người thông minh thường chết sớm hơn cả.
Thiên Tiêu không làm người thông minh. Thế nhưng Thiên tiêu thì thầm với mẫu hậu: “Con sẽ trưởng thành”.
Tuyên thái hậu mỉm cười nói: “Ta sẽ chờ con trưởng thành”.
So sánh với việc Nhiếp chính vương thường xuyên tới cung Thọ Ninh thì số lần vương phi Nhiếp chính vương tới thăm tỷ tỷ càng ngày càng ít hơn.
Ngày hôm đó, khi Thiên Tiêu đang chơi đá dế cùng với Nam Nhã Ý, con gái của nhũ nương thì bỗng thấy bóng người in xuống mặt đất.
Ngẩng mặt lên, ngài nhận ra đó là Thiên Trọng.
“Thiên Trọng đại ca”. Thiên Tiêu thân thiết kéo tay Thiên Trọng đi vào trong phòng ngồi chơi rồi nói tiếp: “Lâu rồi không thấy đại huynh cùng dì vào đây chơi, trẫm đang nhớ hai người đây”.
Sắc mặt của Thiên Trọng không tốt lắm, đứng bất động mãi, đưa mắt nhìn vào chiếc hộp đựng những con dế to nhỏ, lớn bé khác nhau rồi nói: “Ta không đi đâu. Mẫu thân của ta đang bệnh, cho nên gần đây không thể vào cung được”.
Thiên Tiêu liền đáp: “Dì hai bị ốm sao? Vậy thì ngày mai trẫm phải đi thăm dì mới được. Trẫm chỉ lo chơi đùa, hoàng thúc cũng không nói cho trẫm biết. Trẫm nên cùng mẫu hậu tới thăm dì mới đúng”.
“Không cần đâu”. Đôi mày của Thiên Trọng cau chặt lại, sau cùng vẫn nhẫn nhịn được, liền cất tiếng hỏi: “Dạo này Hoàng thượng có gặp phụ thân ta không?”
Thiên Tiêu liền đáp: “Buổi chiều sáng sớm hôm nào mà trẫm chẳng gặp. Sau đó, đám đại thần kia cùng với hoàng thúc nói một đống những chuyện gì đó rắc rối, phức tạp, trẫm nghe mãi nghe mãi, ngáp ngắn ngáp dài, không biết ngủ quên từ lúc nào, sau đó được người khác bế về cung, sau cùng cũng chả biết bãi triều lúc nào nữa”.
Thiên Trọng thở dài một tiếng rồi nói: “Hoàng thượng tiếp tục chơi đi. Buổi tối nhớ đi ngủ sớm, lên triều sáng sớm mà ngủ gật hoài thì không hay đâu. Sau này, các đại thần sẽ chẳng coi Hoàng thượng ra gì đâu”.
“Được”. Thiên Tiêu đồng ý, rồi quay lại nói chuyện cùng với thái giám thân cận Cận Thất: “Mau tới thái y viện truyền mấy vị thái y tốt nhất đi bắt mạch, chẩn trị cho dì hai của trẫm. Sau đó đi xem trong cung của ta còn những loại thuốc đại bổ nào thì mau đem tới phủ Nhiếp chính vương ngay”.
Cận Thất tuân lệnh, lúc quay lại nhìn thì không biết Thiên Trọng đã rời khỏi đó từ khi nào.
Vương phi Nhiếp chính vương dường như bị bệnh rất lâu, mãi mới hồi phục được, còn hai mẫu tử Đường Thiên Tiêu sau cùng cũng không đích thân tới thăm vương phi lần nào.
Nghe nói, tất cả những loại thuốc bổ mà Tuyên thái hậu và thiếu đế ban tặng đều bị vương phi nếm hết ra ngoài cửa phòng, thậm chí có một lần còn ném cả bát thuốc vào trán của Nhiếp chính vương khiến ngài bị thương, chảy rất nhiều máu.
Thiên Tiêu hoàn toàn không biết có nên cảm thấy may mắn vì vương phi chỉ gây sự vô lí ở phủ của Nhiếp chính vương hay không.
Sau lần đột nhiên xông vào tẩm cung của Thái hậu, Thiên Tiêu biết được quan hệ giữa Tuyên thái hậu và Nhiếp chính vương rất tốt đẹp. Hoặc nói theo cách khác thì Tuyên thái hậu khiến cho Nhiếp chính vương vô cùng vui vẻ.
Thậm chí, Nhiếp chính vương còn quyết không nói ra chuyện không vui trong gia đình mình, vẫn cứ tới thăm Tuyên thái hậu như trước kia, nói chuyện, hàn huyên vui vẻ với người.
Mãi cho tới một hôm, cuối cùng phong ba cũng ập tới. Cận Thất chạy đến bẩm báo cho Thiên Tiêu, vương phi Nhiếp chính vương tới thăm, mang theo bánh điểm tâm do người trong phủ làm, cùng dùng bữa với Tuyên thái hậu.
Tuyên thái hậu để tâm đến chuyện này, đoán rằng trong bánh điểm tâm có thể có độc, âm thầm, lặng lẽ đổi đi, sau đó bình thản như không có chuyện gì dùng bữa cùng với muội muội của mình. Còn thứ bánh điểm tâm được hoán đổi, khi đem đi kiểm tra, quả nhiên chứa chất kịch độc trong đó.
Bởi vì Tuyên thái hậu vẫn còn đang nói chuyện, hàn huyên cùng với vương phi Nhiếp chính vương, nên đám cung nữ không tiện vào thông báo, bèn đến tìm Thiên Tiêu xin ý chỉ.
Thiên Tiêu không yên tâm sự an nguy của mẫu hậu mình, vừa cho người đến thông báo cho Nhiếp chính vương, vừa vội vã chạy tới cung Thọ Ninh.
Lúc này, Thọ Ninh cung đang vô cùng hỗn loạn.
Lúc Thiên Tiêu chạy vào tẩm cung, còn nghe thấy mẫu hậu đang kêu lên thảm thiết, hổn hển đưa lời giải thích: “Trời ơi… muội muội, tỷ tỷ chỉ muốn tìm một con đường để hai mẹ con tỷ có thể tiếp tục sống mà thôi. Muội muội… tỷ tỷ… tỷ tỷ nhất định phải sống sót, Tiêu Nhi của tỷ cũng phải tiếp tục sống… á… trời ơi…”
Thiên Tiêu chạy như điên vào trong phòng liền nhìn thấy Tuyên thái hậu đang ôm lấy đầu tựa người vào tường, từ từ trượt xuống, sau cùng ngã xuống mặt đất.
Còn vị vương phi Nhiếp chính vương mọi khi đối xử với ngài vô cùng dịu dàng, tốt bụng kia đang đỏ rực hai mắt, cầm chiếc ghế gỗ tròn bốn chân, đập điên cuồng vào người tỷ tỷ của mình.
Mặc cho lúc này Tuyên thái hậu đã nằm bất động trên mặt đất, vương phi vẫn liên tục đập chiếc ghế vào người Thái hậu, như thể muốn giã nát cả thân xác của tỷ tỷ mình ra thành tro bụi vậy, để cho mọi người không ai còn có thể nhìn thấy được dung mạo hoa nhường nguyệt thẹn của Thái hậu nữa.
“Mẫu hậu”.
Thiên Tiêu sợ đến mức chân tay run rẩy, mềm nhũn, chạy nhanh lại chỗ đó, đâm mạnh vào người vương phi đẩy người ngã sang một bên, sau đó quỳ trước thân thể của mẫu hậu rồi thét lên: “Mẫu hậu, người mau tỉnh lại đi, mau tỉnh lại đi”.
Các hầu nữ đứng trong tẩm cung mặt trắng bệch luôn miệng hét lên: “Vương phi… vương phi giết chết Thái hậu, giết chết Thái hậu rồi”.
Vương phi Nhiếp chính vương liền bật cười thành tiếng rồi nói: “Ta giết mụ ta thì sao chứ? Ta giết luôn cả ngươi thì đã sao nào? Đừng có coi ta là kẻ ngốc, đừng coi ta là kẻ ngốc”. Chiếc ghế dính đầy máu của Tuyên thái hậu lại chuyển đổi phương hướng, nhanh chóng, chuẩn xác vung về phía Thiên Tiêu”.
Vương phi liền quát tháo: “Thiên Tiêu! Thiên Tiêu, cả ngày chỉ nghe thấy Nhiếp chính vương nhắc đến Thiên Tiêu. Nghiệt chủng! Nghiệt chủng! Ngươi nhất định là nghiệt chủng của bọn chúng. Ha ha, ta xem ngài bảo vệ mụ ta thế nào, bảo vệ nghiệt chủng của mụ ta thế nào! Ta ngu, ta ngốc, ta đã làm con ngốc đúng mười bốn năm nay! Đường Thừa Sóc, đồ súc sinh, ta đánh chết thằng tiểu súc sinh này cho ngài xem”.
Thiên Tiêu tránh được mấy phát, lại bị đập vào lưng mấy phát, vẫn cứ nhịn đau đẩy người mẫu hậu ra, thấy mẫu hậu chẳng có phản ứng gì, tưởng rằng người thật sự đã qua đời, trong lòng vừa sợ hãi tột cùng lại vừa bi thương vạn phần, bật khóc thành tiếng, lấy chiếc bình hoa lớn ở gần đó đập về phía vương phi rồi thét lên: “Người giết chết mẫu hậu của trẫm. Người giết chết mẫu hậu của trẫm rồi”.
Vương phi Nhiếp chính vương bị bình hoa lớn đập vào vai, đau đớn thét lên một tiếng rồi đập vỡ bình hoa trong tay Thiên Tiêu, tiếp tục đập chiếc ghế vào phần đầu của Thiên Tiêu.
Thiên Tiêu còn bé sức yếu, giẫm lên mảnh vụn bình hoa chạy quanh chiếc bàn né tránh, miệng liên tục thét lên: “Người đâu, mau đến cứu trẫm”.
Ngài thét lớn tiếng, bật khóc vô cùng thảm thương, hãi hùng chạy về phía đám người hầu cận bên ngoài. Lúc quay lại, Thiên Tiêu dẫn mấy tên thái giám cao to, vạm vỡ. Đây đều là những người luyện võ có thể tin tưởng được, liền xông lên trước kéo vương phi Nhiếp chính vương ra.
Thế nhưng từ nhỏ vương phi Nhiếp chính vương đã tập võ, sức lực mạnh mẽ hơn những người phụ nữ thông thường, mắt nhìn không ai khống chế được vương phi, Thiên Tiêu lại bị đập thêm một nhát vào trán, cả mặt nhoe nhoét đầy máu tươi. Tất cả mọi người xung quanh vô cùng hoảng hốt, liền lấy những thứ xung quanh ném về phía vương phi.
Thiên Tiêu hổn hển hít thở, máu tươi khiến đôi mắt của Thiên Tiêu nhạt nhòa đi, không biết được liệu chăng tất cả số máu tươi trong cơ thể mình sẽ chảy ra như thế này hay không, để rồi sau đó, cùng sang thế giới bên kia với mẫu hậu. Thiên Tiêu thét lên lớn tiếng, cầm những thứ đồ gần tay mình nhất như đĩa hoa quả, mảnh vỡ bình hoa ném về phía vương phi Nhiếp chính vương.
Thêm vào đó, các cung nữ, thái giám đứng gần đó cũng ném liên tiếp nghiên mực, giấy tờ, lò sưởi về phía vương phi. Thiên Tiêu không còn nhớ rõ rốt cuộc bản thân hay là đám cung nhân kia đã liên tục thét lớn: “Báo thù, báo thù cho Thái hậu… đánh chết bà ta, đánh chết bà ta, đánh chết bà ta đi…”
Tất cả mọi thứ đều hỗn loạn, điên đảo và không thể nào kiểm soát được.
Cuối cùng, Thiên Tiêu cũng cạn kiệt hết sức lực ngã xuống mặt đất, vương phi Nhiếp chính vương cũng kiệt sức ngã theo, trên người mướt mát đầy máu tươi y hệt như ngài.
Lúc này, Thiên Tiêu dường như nghe thấy tiếng rên rỉ của mẫu hậu mình.
Khi ngước mắt lên, ngài thấy mẫu hậu đang ngồi tựa vào tường, khuôn mặt đầm đìa đầy nước mắt, đưa đôi tay run rẩy chỉ về phía vương phi Nhiếp chính vương, không nói được lời nào.
Thiên Tiêu liền bò lại gần, ôm chặt lấy thân người của mẫu hậu rồi luôn miệng nói: “Mẫu hậu đừng sợ, đừng sợ, nhi thần… nhi thần đã giết chết mụ ta, nhi thần đã giết chết mụ ta…”
Tuyên thái hậu hạ hai tay xuống, ôm lấy con trai mình, khóc nức khóc nở. Không biết lúc này, ai lên tiếng bảo: “Nhiếp chính vương đến”.
Máu nóng hừng hực trong người của đám cung nhân từ từ hạ nhiệt, tất cả đám người đều sợ hãi quỳ rạp xuống mặt đất, trước một đống đổ nát hoang tàn, mặt đất đầy máu tươi nhoe nhoét.
Nhiếp chính vương xông tới nhìn thấy vương phi của mình nằm trên mặt đất, đầu chảy đầy máu tươi, lại đưa mắt nhìn sang Tuyên thái hậu đang ôm lấy thiếu đế ngồi co ro trong góc tường, nét mặt ngây ngây, đờ đẫn chứ chẳng còn chút bi thương, sợ hãi nào nữa.
“Tình Nhu, Tình Nhu”.
Nhiếp chính vương bế thốc vương phi của mình lên không ngừng lay, không ngừng gọi, lại thét ra phía bên ngoài: “Mau truyền thái y! Mau truyền thái y”.
Thế nhưng máu của thê tử ngài đã bắt đầu lạnh dần. Chẳng thể nào cứu vãn được nữa.
Đôi môi ngài khẽ run run, nghiến răng nghiến lợi nhìn về phía Tuyên thái hậu.
Tuyên thái hậu buông Thiên Tiêu ra, cố gắng đứng dậy, chập chà chập choạng bước lại gần, quỳ trước thi thể muội muội ruột, mặt mày ngây dại lên tiếng: “Là ta, là ta đã lỡ tay… là ta đã giết chết muội muội”.
Nhiếp chính vương bật khóc, tát mạnh vào mặt Thái hậu. Ngài thét lớn tiếng: “Tiện nhân, nàng ấy là muội muội của ngươi! Tình Nhu là muội muội của ngươi! Ngươi… ngươi nhường Tình Nhu một chút không được sao?”
Ngài ôm chặt lấy thi thể của thê tử, đau khổ bật khóc lớn tiếng.
Tuyên thái hậu không hề đáp lại, ngây người nhìn vào khuôn mặt của muội muội trong giây lát, sau đó chập choạng bước ra bên ngoài đóng cửa cung lại.
Trong cung điện lúc này chỉ còn nghe thấy tiếng khóc đầy hối hận, tiếc nuối của Nhiếp chính vương, ngài không ngừng gọi tên thê tử của mình: “Tình Nhu, Tình Nhu…”
Có thể ngài không phải vô cùng yêu thương người vợ của mình.
Thế nhưng hai người đã thành hôn mười mấy năm nay, cho dù không có tình yêu thì cũng tồn tại thứ tình thân sâu đậm sau khi cùng nhau sinh thành và nuôi dưỡng con cái.
Chẳng ai biết được tiếp theo ngài sẽ hành động thế nào, Thiên Tiêu lúc này hoảng hốt nghĩ ra, tất cả nhưng người hầu kẻ hạ trong cung này có lẽ sẽ chẳng thể nào sống tiếp được nữa.
Còn ngài thì sao? Mẫu hậu thì sao? Liệu có phải cũng chẳng thể sống tiếp được nữa?
Phải chăng số phận cũng giống như Lệ phi với hoàng huynh, hoàng đệ của ngài? Chết đi trong âm thầm, lặng lẽ, cái chết chẳng khác nào một con chó hoang, nhanh chóng bị người đời lãng quên?
Trong tẩm cung lúc này im phăng phắc không có tiếng động nào.
Mẫu hậu đang bị thương nặng, người hầu kẻ hạ quỳ rạp dưới mặt đất, không ai dám động đậy gì cả. Cho dù phải chết, Thiên Tiêu cũng nhất định sẽ ở bên mẫu hậu của mình.
Thế là, ngài lau sạch hết máu tươi trên mặt, khốn khổ lê thân xác tiến vào trong điện, đẩy cửa ra, nhìn vào phía trong rồi thét lớn tiếng vào bên trong.
Trên thanh xà cao cao, thân người gầy gò của Tuyên thái hậu không ngừng lay theo tiếng khóc hoảng hốt, sợ hãi của Thiên Tiêu.
Tuyên thái hậu lúc này đang treo cổ.
“Tình Uyển”.
Nhiếp chính vương xông lại gần, thét lên đầy kinh hoảng, đưa kiếm chém đứt tấm vải trắng kia.
Tuyên thái hậu im lìm, lặng lẽ rơi xuống mặt đất, nằm gọn trong vòng tay của Nhiếp chính vương, hai mắt nhắm lại, hơi thở gần như không còn.
Thiên Tiêu cảm thấy cổ họng mình đau nhói, nước mắt giàn giụa rơi xuống, đột nhiên kéo lấy tay áo của Nhiếp chính vương rồi nói: “Hoàng thúc, là trẫm đã giết dì hai, … là trẫm… là trẫm… mẫu hậu bị dì đánh đến mức gần chết, trong miệng vẫn không ngừng cầu xin dì tha cho hai mẫu tử trẫm một con đường sống, dì không đồng ý… dì nói trẫm là nghiệt chủng của hoàng thúc, lại định giết chết trẫm… trẫm tưởng rằng mẫu hậu đã bị đánh chết, trẫm tưởng rằng trẫm cũng chẳng thể nào sống tiếp được nữa… trẫm bảo người khác đánh chết dì… đánh chết dì… trẫm… trẫm…”
Thân người Thiên Tiêu chập choạng, ngã xuống thân thể của mẫu hậu rồi cũng hôn mê bất tỉnh.
Tuy rằng Thiên Tiêu đã nói hết sự thật mọi chuyện, nhưng Nhiếp chính vương không hề gây khó dễ gì cho ngài. Ngài được người khác đưa về tẩm cung của mình, thái y liên tục hầu cận bên cạnh, chăm sóc, quan sát suốt đêm ngày.
Tin truyền ra bên ngoài chỉ nói ngài bị ngã ngựa đập đầu chảy máu, Tuyên thái hậu sau cùng cũng được cứu sống, nhưng lúc nào cũng nằm quay mặt vào trong, nhiều ngày liền không ăn không uống, mãi cho tới khi Thiên Tiêu nghe được tin này, nhẫn nhịn đau đớn bê đồ ăn tới, người mới ôm lấy con trai khóc một trận thảm thiết rồi miễn cưỡng ăn uống vài miếng.
Thế nhưng tinh thần Thái hậu bị tổn thương nghiêm trọng, sức khỏe giảm sút đi nhiều, nhiều tháng sau khi chuyện này xảy ra, vẫn cứ nằm liệt trên giường bệnh mãi không thôi. Mấy lần Thái hậu sốt cao mãi không hạ, Thiên Tiêu không hề ngần ngại, không hề trễ nải, hầu hạ chăm sóc bên giường, người mới từ từ thuyên giảm.
Lúc này, cơn phong ba bão táp bùng lên do cái chết của vương phi Nhiếp chính vương đã chìm lắng. Những người có mặt biết chuyện ngày hôm đó, người chết, kẻ mất tích, ngay cả những người còn lại yên lành không sao, cũng chẳng bao giờ dám nhắc lại hôm đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.
Thi thể của vương phi Nhiếp chính vương nhanh chóng được đưa ra khỏi cung, không lâu sau trong dân gian lan truyền tin vương phi Nhiếp chính vương chết vì bạo bệnh.
Tuy rằng nhiều người cảm thấy kì lạ trước cái chết của vương phi, vì sáng sớm vẫn còn khỏe mạnh vào cung, buổi tối đã nghe thấy tin qua đời, nhưng trước đó cũng thường xuyên nghe thấy tin vương phi ốm liệt giường, Nhiếp chính vương lại không hề đưa ra bất cứ ý kiến thắc mắc nào về cái chết của thê tử mình, thế nên, sau khi vương phi được khâm liệm, chôn cất tử tế, mọi chuyện cũng theo đó mà trôi qua rất nhanh, không còn bất cứ ai hỏi han, dị nghị điều gì nữa.
Trong hoàng cung, khoảng thời gian này vô cùng tĩnh lặng, thậm chí còn im lìm hơn cả trước khi xảy ra chuyện.
Nhiếp chính vương vẫn thường xuyên đến thăm hỏi Tuyên thái hậu, bàn thảo các việc triều chính, nhưng không bao giờ ở lại đây qua đêm nữa.
Phần lớn thời gian họ im lặng không nói với nhau nửa lời.
Cũng có lúc Nhiếp chính vương đến kiểm tra bài vở học hành của Thiên Tiêu, biểu hiện của Hoàng thượng không hề ngốc nghếch, nhưng rõ ràng không hề đặt tâm tư vào chuyện học hành và quốc gia đại sự. Ngay cả lúc trả lời câu hỏi của Nhiếp chính vương, ngài cũng không quên đánh mắt, liếc nhìn các cung nữ, thái giám hầu cận bên cạnh, lúc nào cũng để tâm đến việc con khổng tước ngoài hành lang đã được uống nước chưa, dế ở trong hộp liệu còn sống không.
Nhiếp chính vương vừa tỏ thái độ không vui, Thiên Tiêu liên đích thân rót ly trà cho ngài, sau đó cùng Nhiếp chính vương bình phẩm về lá trà cũ hay mới, nước pha trà ngọt hay không.
Nhiếp chính vương rõ ràng đã trầm lặng hơn trước nhiều, mấy lần định nói rồi lại thôi, sau cùng phẩy tay áo bỏ đi, sau này không bao giờ còn quan tâm đến chuyện học hành, bài vở của Thiên Tiêu nữa.
Còn việc thiếu đế lười nhác, ham chơi ghét học và cả thái độ lười nhác chuyện triều chính của ngài cũng dần dần lan đi khắp chốn.
Xem ra cái chết của vương phi Nhiếp chính vương không hề ảnh hưởng xấu mà còn đem lại lợi ích cho hai mẹ con Đường Thiên Tiêu.
Chắc hẳn Nhiếp chính vương đã nhận ra rằng chính sự bừa bãi, nông nổi của mình đã dẫn tới cái chết đầy bi kịch của thê tử, lại thêm chuyện Thái hậu treo cổ tự tử vì chuyện này, suýt chút nữa cũng mất mạng, ngài cảm thấy vô cùng áy náy, hối hận, nhiều lúc rõ ràng biết rằng Tuyên thái hậu đang mua chuộc lòng người, xây dựng thân tín cho riêng mình, ngài cũng coi như không thấy, phớt lờ cho qua.
Trong thời loạn lạc, binh quyền cao bằng trời. Trong tay Nhiếp chính vương nắm tới tám, chín phần binh quyền của toàn bộ Đại Chu, nếu như Tuyên thái hậu muốn hoàn thành di nguyện của Võ đế, bình định Nam Sở, đối kháng Bắc Hách đều không thể thiếu ngài được. Còn ngài nếu như muốn dấy binh làm phản, thay đổi đế vương cũng chẳng ai có thể ngăn cản.
Vậy nên, Nhiếp chính vương chẳng buồn để tâm đến những hành động lôi kéo nhân tâm kia của Tuyên thái hậu làm gì cả.
Có lẽ trong lòng ngài, những hành động này đối với Tuyên thái hậu mà nói là phương cách giúp người an lòng sau khi qua trải nghiệm sống chết đáng sợ trước đó.
Tuyên thái hậu lúc này xanh xao là thế, tiều tụy là thế, thậm chí trông còn cằn cỗi, đáng thương. Ngài chấp nhận nhẫn nhịn, khoan dung. Còn ngài dường như cũng biết mất trong một khoảng thời gian ngắn.
Nắm trong tay giang sơn thiên hạ đẹp như mộng, nhưng lại chẳng thể nào khiến cho ngài thôi cau chặt đôi mày vì muộn phiền, dường như chỉ trong thời gian một đêm, mái tóc ngài đã có thêm nhiều sợi bạc, muốn ngăn cũng chẳng được.
Lúc này, Nhiếp chính vương trông chẳng khác nào một ông lão già nua, nói với Thiên Tiêu rằng: “Ta đã nói với Thiên Trọng nhiều lần, bảo Thiên Trọng coi Hoàng thượng như huynh đệ ruột thịt. Thế nhưng tính cách của thằng bé không tốt lắm, nếu như có điều gì mạo phạm, Hoàng thượng đừng chấp nhặt với Thiên Trọng, chỉ cần báo cho ta biết là được. Thường ngày khi gặp mặt, cần phải kính trọng Thiên Trọng, không được cãi lại lời nói của Thiên Trọng, Hoàng thượng có hiểu không?”
Thiên Tiêu sảng khoái tuân theo, nhưng trong lòng vô cùng nghi hoặc.
Thiên Trọng không phải vẫn luôn đối xử với ngài rất tốt hay sao?
Thiên Tiêu nhất thời quên rằng, trước kia một trong số những nguyên nhân Thiên Trọng đối xử tốt với mình chính là vì mẫu thân của hai người là tỷ muội, hơn nữa thủ túc tình thâm.
Nguyên nhân thực sự dẫn đến cái chết của vương phi được Nhiếp chính vương che giấu kỹ càng, có thể che mắt những người trong thiên hạ nhưng làm sao có thể che mắt được con trai của ngài?
Vào năm đó, Thiên Tiêu mười tuổi, Thiên Trọng mười bốn tuổi.
Thiên Tiêu còn kéo Nhã Ý ngồi trong phòng đấu dế, vui chơi, Thiên Trọng đã dắt binh lính đi chinh chiến khắp đại giang Nam Bắc, dùng thi thể của quân địch xây dựng uy tín, oai nghiêm của mình trong tướng sĩ ba quân.
Vào mùa đông năm đó, Nhiếp chính vương cùng Thiên Trọng đưa quân tấn công Nam Sở, hạ liên tiếp mười ba thành trì, ép Nam Sở phải kí hòa ước nhượng đất, khải hoàn quay về.
Tuyên thái hậu lệnh cho Thiên Tiêu đích thân ra cửa Bắc của Kinh thành nghênh đón, đồng thời thiết đãi yến tiệc trong Hoàng cung để chúc mừng chiến thắng.
Tuyên thái hậu sớm đã làm quen với những chuyện này, các văn khanh võ tướng đứng đầy đại điện khiến cho người vui vẻ đến mức mỉm cười liên tiếp không thôi, quân thần không ngừng chúc tụng nhau.
Thiên Tiêu chỉ đáp lễ những người này một lúc rồi nói chuyện vui đùa với đám cung nữ hầu cận xung quanh, bình phẩm về ca múa, rượu thịt, không hề nói xen vào những chuyện quốc gia đại sự của Tuyên thái hậu và Nhiếp chính vương nữa.
Thiên Trọng dường như không thích những buổi yến tiệc kiểu này, chỉ im lặng ngồi ở bàn tiệc, không ngừng uống rượu, thi thoảng đưa ánh mắt về phía Thiên Tiêu liền thấy Thiên Tiêu giơ cao chén rượu ra vẻ kính rượu, ngài mới chịu nâng chén đáp lễ, ngửa cổ cạn sạch.
Thiên Trọng căn bản chẳng buồn nhìn Thiên Tiêu lấy một lần, chỉ là đưa mắt lướt qua mà thôi.
Thiên Tiêu vẫn không hề mất đi nhã hứng. May mà tiếng xấu lười nhác, ham vui của Thiên Tiêu đã truyền đi khắp chốn, nếu như không thích, ngài lặng lẽ rời đi cũng chẳng ai buồn để tâm đến. Những người xung quanh cho rằng ngài còn nhỏ tuổi ham chơi, lười biếng, không muốn để tâm vào chuyện triều chính, chắc lại muốn trốn vào góc nào đó vui đùa.
Thiên Tiêu thật sự rời khỏi bữa tiệc, dẫn theo mỗi mình Cận Thất, cầm theo chiếc đèn lồng đỏ rực, liên tục tiến về phía trước.
Tiếng ca hát nhảy múa nào nhiệt dần dần biến mất, cơn gió lạnh khẽ thoảng qua người khiến cho ngài cũng tỉnh táo vài phần.
Mặt hồ cạnh bên tĩnh lặng, băng giá, ánh trăng trên nước rung nhẹ theo làn gió lạnh lẽo. Lá sen